Vui buồn phim tài liệu Việt Nam ( Bài 16)

Daotaotruyenhinh.vn xin trân trọng giới thiệu bài viết thứ mười sáu trong loạt bài về phim tài liệu của nhà biên kịch Nguyễn Hậu với tiêu đề ” Vui buồn phim tài liệu Việt Nam”.

Bác Hồ trong chiến dịch biên giới  năm 1950

Ra đời trong khói lửa chiến tranh, điện ảnh cách mạng Việt Nam bắt đầu từ phim thời sự – tài liệu. Ngày 15 tháng Ba năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Doanh nghiệp Quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam, nhưng trên thực tế, ngay từ năm 1948, Điện ảnh khu Tám đã hình thành tại miền Tây Nam Bộ. Trong hoàn cảnh cực kì khó khăn, thiếu thốn, các bậc “tiền bối” như Nguyễn Thế Đoàn, Mai Lộc, Khương Mễ,… đã cho ra mắt hàng loạt phim thời sự – tài liệu mang ý nghĩa động viên, cổ vũ đồng bào và chiến sĩ một cách kịp thời, như Trận Mộc Hóa, Trận La Bang, Binh công xưởng khu TámChiến dịch Sóc TrăngLễ xuất quân trung đoàn 115, v.v. Còn trước nữa, có lẽ phải kể đến cả những mét phim tư liệu ghi lại hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian dự Hội nghị Fontaineblau (Pháp) do nhóm Việt kiều Sao vàng thực hiện.

Trong khi đó, ở Việt Bắc, Điện ảnh Đồi Cọ cũng ra đời, đánh dấu những bước đi đầu tiên của nền điện ảnh còn đang trong thời kì trứng nước với những Phan Nghiêm, Nguyễn Tiến Lợi,… và những bộ phim mang tính thử nghiệm. Nhưng đáng chú ý, là từ năm 1950, một số bộ phim thời sự – tài liệu lần lượt ra đời, gây được tiếng vang và có tác dụng cực kì to lớn trong việc thông tin tuyên truyền đối với đông đảo cán bộ, chiến sĩ và những người dân ở vùng tự do, như Chiến thắng Đông KhêĐại hội anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn quốcĐại hội thành lập Đảng Lao động Việt Nam,… Sau đó ít lâu, với sự xuất hiện của một số đoàn làm phim nước ngoài tại chiến khu Việt Bắc, đã có thêm những Việt Nam kháng chiếnChiến thắng Tây BắcViệt Nam trên đường thắng lợiCây tre Việt Nam, v.v. Có thể nói đây cũng là hình thức hợp tác làm phim ban đầu của chúng ta với nước ngoài.

                                   Bác Hồ và đại tướng Võ Nguyên Giáp tai mặt trận Đông Khê năm 1950

Sau khi hòa bình lập lại, năm 1956, Xưởng phim Việt Nam được thành lập, tạo cơ sở cho việc làm phim một cách chính quy và chuyên nghiệp. Ít lâu sau, Xưởng phim Thời sự – Tài liệu trung ương – tiền thân của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên – Hãng phim Tài liệu và Khoa học trung ương ra đời. Cũng từ đó, phim thời sự – tài liệu Việt Nam ngày càng trở nên quen thuộc đối với đông đảo người dân miền Bắc trong bối cảnh đất nước bị chia đôi, truyền hình chưa có và sách báo còn rất ít. Vì thế, mỗi buổi xem chiếu bóng đều giống như một đêm hội; và tuy được gọi là “phim phụ”, đem ra chiếu đầu tiên, nhưng phim thời sự – tài liệu vẫn thật sự hấp dẫn người xem ở tính chân thực rất cao của nó. Khán giả như tận mắt được nhìn thấy Bác Hồ, thủ đô Hà Nội, cảnh vật và con người ở khắp mọi nơi; những câu chuyện gần gũi với họ trong cuộc sống hằng ngày, khơi gợi những suy nghĩ và tình cảm tốt đẹp, mới mẻ trong những con người bình dị, chân lấm tay bùn.

Với phương châm “văn học nghệ thuật phải phục vụ chính trị, là vũ khí đấu tranh giai cấp cực kì lợi hại”, trong một thời gian khá dài, mỗi bộ phim thời sự – tài liệu đều đã cố gắng đi sâu phản ánh những vấn đề lớn lao, nóng hổi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong bối cảnh đó, Nước về Bắc Hưng Hải của đạo diễn Bùi Đình Hạc không chỉ là bộ phim tài liệu đầu tiên của Việt Nam đoạt giải Vàng tại một Liên hoan phim Quốc tế (Matxcơva, 1959) mà còn là tác phẩm điện ảnh đầu tiên của chúng ta được tôn vinh ở nước ngoài.

                                 Cảnh trong phim Nước về Bắc Hưng Hải của đạo diễn Bùi Đình Hạc

Bước sang giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của Mỹ trên miền Bắc, điện ảnh tài liệu Việt Nam lại có những bước phát triển vượt bậc, rất đáng tự hào. Đội ngũ những người làm phim đông hơn; Điện ảnh Giải phóng ra đời và thêm vào đó, là Điện ảnh Quân độiĐiện ảnh Công an… Nhiều tác phẩm đã đến với đông đảo khán giả trong nước cũng như bạn bè quốc tế, trong đó có những phim đạt thứ hạng cao, giành giải thưởng tại các liên hoan phim trong nước và quốc tế. Có thể kể đến một số bộ phim tiêu biểu, như Đầu sóng ngọn gióLũy thép Vĩnh LinhMột ngày Hà NộiTừ trận đầu đánh thắngNghệ thuật tuổi thơĐường ra phía trướcNhững người săn thú trên núi Đak Sao,… Để có được những bộ phim như thế, không ít nghệ sĩ – chiến sĩ điện ảnh của chúng ta đã hi sinh hoặc mang thương tật suốt đời. Đó là chưa kể có trường hợp, phim quay xong trên đường đem ra miền Bắc thì xe ô tô bị trúng bom, cả người và phim đều không còn nữa.

Ngày mùng 7 tháng Chín năm 1970, buổi phát sóng thử nghiệm đầu tiên của Truyền hình Việt Nam được thực hiện. Xưởng phim Vô tuyến điện cũng ra đời, với mục đích chủ yếu là sản xuất phim thời sự – tài liệu, nhằm giới thiệu cuộc sống và chiến đấu của nhân dân ta với bạn bè ở khắp mọi nơi trên thế giới. Cũng từ đó, một dòng phim tài liệu mới – phim tài liệu truyền hình đã xuất hiện, và bộ phim tài liệu đầu tiên của Truyền hình Việt Nam đoạt giải tại Liên hoan phim Laixích (Cộng hòa Dân chủ Đức) là Tiếng trống trường (đạo diễn Thanh Huyền). Qua những thay đổi về cơ cấu, tổ chức, nhân sự…, hiện nay Trung tâm phim tài liệu và phóng sự – Đài Truyền hình Việt Nam mỗi năm cho ra đời tới hàng trăm tập phim các loại, phát sóng định kì trên phạm vi cả nước. Cùng với đó, Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, các đài khu vực và địa phương mỗi năm cũng đóng góp thêm hàng trăm tập nữa.

Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, mỗi năm sản xuất tới bảy tám mươi bộ phim tài liệu và khoa học các loại, liên tiếp gặt hái nhiều giải thưởng trong và ngoài nước, trợ giúp cả các bạn Lào và Campuchia, thì từ cuối những năm 90, Hãng phim Tài liệu và Khoa học trung ương – đơn vị anh hùng lại ngày càng bị thu hẹp phạm vi ảnh hưởng. Kinh phí làm phim ngày càng ít, đầu phim cũng giảm theo, phim làm ra “đắp chiếu để đấy”, chờ đi dự liên hoan, xong rồi cũng không biết chiếu ở đâu, cuối cùng lại đành phải nhờ ông bạn Truyền hình phát sóng hoặc chờ đến những ngày lễ lớn đem ra phục vụ đồng báo đồng chí, lẽ đương nhiên là miễn phí. Trong tình thế ấy, những năm gần đây, Công ty TNHH một thành viên này có sáng kiến tổ chức chiếu phim kết hợp giao lưu ngay tại cơ quan vào tối thứ năm hằng tuần. Khán giả đến nơi, không mất tiền mua vé, mà lại được xem những bộ phim “mới ra lò” và gặp gỡ, trao đổi với các tác giả, trong một không khí rất gần gũi, chân tình. Nhưng… tiếc thay, không phải buổi chiếu nào cũng đông người.

Đối với phim tài liệu điện ảnh đã vậy, còn với truyền hình thì sao? Rất tiếc là cho đến nay, dường như chưa có cuộc điều tra xã hội học nào về vấn đề này. Nhưng sự thật là, mặc dù người xem truyền hình ở Việt Nam gần như được miễn phí hoàn toàn ở các kênh chính luận, thì cũng không mấy ai để ý, đón chờ phim tài liệu truyền hình. Lí do, có thể kể dài dài, nhưng tựu trung, trước hết người ta có quá nhiều cái để mà chọn lựa và rất nhiều khán giả đến với truyền hình chỉ nhằm mục đích giải trí và thư giãn. Mà đây lại là điều rất khó tìm thấy trong các bộ phim tài liệu. Tiếp theo, là phương thức phổ biến phim. Tất cả các chương trình truyền hình đều được xây dựng theo thời gian tuyến tính với những khung giờ định sẵn, vào những ngày đã định. Người xem không có cách nào khác, là phải chờ theo đúng lịch phát sóng của đài. Nhưng không phải ai cũng có thời gian và sự kiên nhẫn để làm việc đó, cho dù đó là những ông già bà cả đã về hưu hoặc thậm chí là người thất nghiệp. Ngay cả những người có nhu cầu tìm hiểu về một vấn đề gì đó qua phim cũng không dễ bỏ ra thời gian chờ đợi để xem một tập Mậu thân 1968Khát vọng Tây Bắc hay Kí ức Việt Nam… chẳng hạn. Hoàn toàn khác với việc xem phim ở rạp, với một sự lựa chọn có chủ đích rõ ràng. Đó là chưa kể, khá nhiều phim tài liệu của chúng ta cứ na ná, hao hao, nhòe lẫn với biết bao nhiêu tác phẩm báo chí truyền hình lên sóng hằng ngày. Thêm vào đó, là quan niệm của chính những người làm phim, khi họ cho rằng đấy là một thể loại tác phẩm báo chí, một thứ “phóng sự kéo dài”, làm thế nào cũng được, miễn là đừng sai phạm gì về mặt quan điểm. Một cách nghĩ như thế, rõ ràng là tầm thường hóa phim tài liệu nói chung và phim tài liệu truyền hình nói riêng, dẫn đến hệ quả tất yếu là khán giả không còn quan tâm đến phim tài liệu. 

Trong những nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng và tìm ra hướng đi cho phim tài liệu nói chung, nhiều cuộc hội nghị, hội thảo đã được tổ chức ở một số nơi. Nhiều tác giả đã lên tiếng, góp bàn về đủ vấn đề. Rất tiếc, là những ý kiến ấy nhiều khi còn đá nhau, và mọi thứ dường như đều rơi vào khoảng không im lặng ngay sau khi các hội thảo và hội nghị ấy kết thúc. Mặt khác, cũng không thể phủ nhận rằng kinh phí đầu tư cho mỗi bộ phim tài liệu nói chung đều rất thấp, cho nên dù muốn thì không phải lúc nào các tác giả cũng đều có thể hoàn thành công việc của mình một cách ngon lành. Còn nhớ, cố đạo diễn Lê Thuấn, nguyên Trưởng tiểu ban Phim tài liệu – Đài truyền hình Việt Nam đã từng trăn trở khá nhiều trước tình trạng một số phim tài liệu không đạt chuẩn. Quả thật, khó mà làm được gì hơn, khi mỗi năm đất nước chúng ta có biết bao nhiêu là ngày lễ và kỉ niệm; công việc thông tin tuyên truyền thôi thúc từng giờ, và nhân sự, tiền nong cũng như phương tiện làm phim tài liệu thì eo hẹp. Vì thế, mỗi bộ phim tài liệu ra đời đã là cả một sự cố gắng của nhiều người.

Dù sao, vẫn còn đó nhóm thể loại phim vô cùng quan trọng đối với cả điện ảnh và truyền hình. Cũng vẫn còn đó, những người sống chết với nghề, gắn bó với phim tài liệu. Các khóa học ngắn hạn về phim tài liệu vẫn được mở ra. Và tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 18 vừa qua, có tới hơn bảy mươi phim tài liệu nhựa và video của điện ảnh và truyền hình tranh tài ở hạng mục này với chiến thắng thuộc về bộ phim có tên gọi Một cơ hội bị bỏ lỡ.

 

Nguyễn Hậu

Facebook Comments