Tư liệu và tài liệu ( Bài 8)

Trong bài trước, chúng tôi có nói đến chuyện qua kiểm tra học trình, khoảng chín mươi phần trăm sinh viên của một lớp báo chí truyền hình năm thứ ba cho rằng “Tư liệu là tài nguyên thiên nhiên, cái có sẵn, dùng chung. Tài liệu là một loại văn bản, dùng để quản lí, điều hành sản xuất”. Điều này chẳng có gì đáng nói, nếu như không phải yêu cầu đề ra là “cho biết tầm quan trọng của việc sử dụng tư liệu, tài liệu trong quá trình xây dựng một bộ phim tài liệu hoặc kí sự truyền hình”. Rất cụ thể, rõ ràng, khó mà có thể nói đây là đề “đánh đố” người học

Sinh viên Vũ Xuân Hưng và Nguyễn Hậu thực hành làm tiểu phẩm tại VGIK năm 1981

Trong bài trước, chúng tôi có nói đến chuyện qua kiểm tra học trình, khoảng chín mươi phần trăm sinh viên của một lớp báo chí truyền hình năm thứ ba cho rằng “Tư liệu là tài nguyên thiên nhiên, cái có sẵn, dùng chung. Tài liệu là . Hơn nữa, chuyện như bịa này lại xảy ra ở một cơ sở đào tạo báo chí nổi tiếng cả nước từ mấy chục năm nay. Càng khó hiểu hơn, khi sinh viên lấy định nghĩa trên để áp dụng vào phim tài liệu và kí sự truyền hình khi mà thầy còn đang giảng và trò còn đang học môn này. Vậy thì người ta sẽ lấy “tài nguyên thiên nhiên” nào và “văn bản” gì đưa vào trong phim tài liệu và kí sự truyền hình? Không biết!

Thật ra, nếu các bạn sinh viên yêu quý của chúng ta chịu khó động não và biết suy luận một chút thì sẽ không đến nỗi phạm phải sai lầm ngớ ngẩn trên. Bằng chứng, là vẫn còn được… mười phần trăm trả lời đúng kia mà! Vì thế, có thể nói chín mươi phần trăm ấy là có vấn đề về tư duy và nhận thức. Và cũng chắc chắn luôn, việc học hành hời hợt, lan truyền cho nhau những cái sai trong khá nhiều sinh viên thời hiện đại. Bạn có tưởng tượng được không, một quyển vở là đã đủ cho bốn năm môn học. Cả một buổi ngồi trong lớp, có sinh viên chỉ ghi được nhõn cái tên bài. Có không ít người ngang nhiên ăn quà vặt, dùng ba lô, túi xách… đặt lên bàn, tranh thủ mở laptop hoặc điện thoại di động để chat, rồi nhắn tin cho nhau. Ấy là chưa kể đến việc nói chuyện riêng hay ngủ gật, mặc dù các ông thầy bà cô ra sức chấn chỉnh và nhắc nhở.

Trở lại với tư liệu và tài liệu, những thuật ngữ rất quen thuộc đối với người làm điện ảnh và truyền hình. Mặc dù đôi lúc ranh giới giữa hai khái niệm này không thật rõ, nhưng về cơ bản, tư liệu là những hình ảnh, giấy tờ, văn bản… được ghi lại với mục đích lưu giữ thông tin, sự kiện hoặc vấn đề nào đó chứ không phải nhằm phổ biến rộng rãi hoặc để làm phim, nhất là đối với những gì còn phải giữ bí mật hoặc vì một lí do nào đó khác. Vì thế nên gần như ở mỗi quốc gia đều có những người đảm trách công việc quay phim tư liệu, nằm trong biên chế tại các cơ sở điện ảnh hoặc truyền hình do nhà nước quản lí. Còn tài liệu, trước hết được hiểu như một nhóm thể loại phim; những văn bản giấy tờ hoặc hình ảnh mang tính chất cụ thể, xác thực, “chứng cứ” có thể giúp làm sáng tỏ một vấn đề nào đấy. Nhưng khi đã được trích ra hoặc ghi hình để đưa vào một bộ phim nào đó, thì nó lại trở thành tư liệu cho tác phẩm mới ấy rồi.

Chẳng hạn, những hình ảnh về chiến dịch Điện Biên Phủ trong bộ phim tài liệu nổi tiếng có tên gọi Việt Nam của Rôman Carmen cũng sẽ trở thành tư liệu nếu nó được trích ra và đưa vào một bộ phim nào đó. Rộng hơn, cũng có thể gọi là tư liệu, những hình ảnh đã được sử dụng trong các chương trình thời sự, tin tức được khai thác lại. Ví dụ, những hình ảnh về động đất hoặc sóng thần ở Đông Nam châu Á năm 2004, hình ảnh về vụ tấn công tòa tháp đôi ở Mỹ năm 2001, hoặc xa hơn là những gì do các phóng viên truyền hình Nhật Bản ghi lại nay được tái hiện trong loạt phim Kí ức Việt Nam.

Ảnh Lễ đài nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/ 9/1945

Theo cách hiểu trên, có thể thấy việc sử dụng tư liệu có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với những người làm phim tài liệu. Hoàn toàn khác với phim truyện, vì chẳng có ai lại đi lấy hình ảnh từ bộ phim này lắp ghép vào bộ phim truyện khác. Tất nhiên trừ trường hợp rất đặc biệt, người ta biến những hình ảnh trong phim truyện thành… tư liệu (rởm) hay tài liệu (cũng rởm nốt!), như điều đã xảy với bộ phim Tháng Mười của Eizenstein. Cảnh đánh chiếm Cung điện Mùa Đông được dàn dựng rất công phu, sau này được người ta sử dụng như một thứ tư liệu, mặc dù vào lúc sự kiện đang diễn ra, không có ai cầm máy quay ghi lại những hình ảnh ấy. Còn ở Việt Nam, tất cả những ai đã từng xem bộ phim truyện màn ảnh rộng Sao tháng Tám của cố đạo diễn Trần Đắc, đều dễ dàng nhận thấy một số hình ảnh trong bộ phim này cứ được phát đi phát lại trên truyền hình nhân dịp kỉ niệm ngày 19 tháng Tám và mùng 2 tháng Chín!

Trong một vài trường hợp rất hiếm hoi, tư liệu được tạo thành một cách hết sức tình cờ, không ai có thể lường trước được. Ví dụ như hình ảnh vụ ám sát tổng thống J.F. Kennedy năm 1963. Một tay máy nghiệp dư do lòng ngưỡng mộ vị tổng thống trẻ tuổi, hào hoa vào bậc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đã vác máy quay ra, cố ghi lại bằng được cảnh hai vợ chồng tổng thống ngồi trên xe mui trần, vẫy chào dân chúng… Đúng lúc ấy, những phát súng vang lên. Người quay phim không biết, vẫn bấm máy cho đến khi sự kiện bi thảm này kết thúc. Kết quả là, sau đó không lâu, những mét phim ấy đã trở thành tư liệu và được bán với giá rất cao, nhanh chóng được phổ biến trên phạm vi toàn nước Mỹ. Hoặc giả, những hình ảnh được ghi lại từ các cuộc du lịch, tham quan, cắm trại… của các đối tượng khác nhau đến một lúc nào đó cũng có thể trở thành tư liệu trong các bộ phim tài liệu.

Chủ tịch Fidel Castro bắt tay những nữ du kích Gio Linh, Quảng Trị.

Việc sử dụng tư liệu, tài liệu trong mỗi bộ phim thường rất công phu, đòi hỏi sự nghiêm túc, khách quan và chuẩn xác, nhất là đối với những hình ảnh không rõ về nguồn gốc, xuất xứ vì một lí do nào đó. Ví dụ, hình ảnh một cuộc chiến đấu giữa quân ta và quân địch hay hình ảnh một khu phố bị tàn phá bởi bom đạn Mỹ. Làm sao biết được trận đánh ấy diễn ra ở đâu, khu phố bị tàn phá là khu phố nào? Phải bỏ công ra để xác minh hoặc nhờ đến những dấu hiệu riêng may mắn có trong các tư liệu ấy, như tấm biển chỉ đường hoặc tấm bảng đề tên đường phố, như “Phố Khâm Thiên” hoặc “Bệnh viện Bạch Mai”… chẳng hạn. Nhưng cũng không thể ẩu được, bởi lẽ nếu phân tích một cách khoa học, chúng ta sẽ tìm ra những nét khác nhau trong bối cảnh, từ những cung đường Trường Sơn thời chống Mỹ, đến một đô thị vừa được giải phóng ở miền Nam hay một căn cứ hậu cần của địch…

Đường đi của một số nguồn tư liệu nhiều khi cũng khá vòng vèo và có những bí ẩn riêng của nó. Thật khó có thể tin được, ngày mùng 2 tháng Chín năm 1945 lại không có ai là người được Cách mạng giao nhiệm vụ quay phim lễ Tuyên ngôn độc lập. Do đó, suốt gần ba mươi năm, chúng ta không hề biết gì đến những tư liệu phim về sự kiện lịch sử này. Phải chờ đến sau khi có Hiệp định Paris về Việt Nam, đạo diễn Phạm Kỳ Nam sang Pháp làm phim tài liệu mới bất ngờ được một Việt kiều trao tặng những mét phim tư liệu vô giá ấy. Từ chỗ bán tín bán nghi, không thể tin rằng có người lại quay được lễ Tuyên ngôn độc lập ở Việt Nam, Phạm Kỳ Nam đã bàng hoàng sửng sốt khi nhận thấy đó là những hình ảnh vô cùng chân thực và sinh động về sự kiện cực kì quan trọng ấy – không ai có thể làm giả được. Cho đến hôm nay, những hình ảnh tư liệu, từ chiếc xe con màu đen, có những người đi xe đạp tháp tùng; đến lễ đài được kết hoa bằng vải đỏ; hình ảnh hàng ngàn người dân đứng vẫy cờ… đã trở nên quen thuộc đối với bất kì một người Việt Nam nào…

Đạo diễn Roman Carmen tại Berlin năm 1945

Để có được những mét phim tư liệu đầy ắp tính khách quan, trung thực, nhiều nhà quay phim và phóng viên truyền hình đã phải dấn thân, đối mặt với đủ thứ khó khăn nguy hiểm. Không ít người trong số đó đã bị thương hoặc hi sinh trong khi làm nhiệm vụ. Nhưng chính nhờ có các nhà quay phim và phóng viên truyền hình ấy mà khán giả hôm nay mới có thể nhìn ngược về quá khứ, hiểu được một giai đoạn đã qua của một đất nước, một dân tộc, cả bạn cũng như thù, và hơn tất cả, hiểu được những người đi trước đã sống và chiến đấu như thế nào… Và trong chuyện này, xin được nói thực lòng, chúng ta phải biết ơn người Mỹ. Vì những lí do khách quan và chủ quan, trong suốt cuộc chiến tranh, chúng ta không ghi được nhiều hình ảnh tư liệu lắm đâu, mà phần lớn là đen trắng với chất lượng không cao; chỉ thấy ta chứ ít khi thấy địch. Nhưng rồi nhờ có những người như Stanley Karnow, Daniel Costele… mà những hình ảnh (đã được chọn lựa kĩ càng) từ hàng triệu mét phim tư liệu do các nhà quay phim Mỹ thực hiện trong hàng chục năm trời đã được biết đến trên toàn thế giới, qua những bộ phim như Việt Nam, một thiên lịch sử bằng truyền hìnhCuộc chiến mười ngàn ngày, và nhất là Chiến tranh Việt Nam – những hình ảnh chưa được biết đến

Tất nhiên, có được tư liệu đã khó, nhưng sử dụng tư liệu thế nào cho có hiệu quả lại còn khó khăn hơn. Đạo diễn phải có bản lĩnh như thế nào mới khỏi bị choáng ngợp trước cả một mớ bòng bong hình ảnh; phải tinh tường lắm mới phát hiện được những gì là tiêu biểu đang trôi qua trên bàn dựng trước mắt mình; và cũng phải dũng cảm đến đâu mới lôi được sự thật ra ánh sáng… Đó là cả một vấn đề, không phải ai muốn cũng đều làm được.

Vâng, tư liệu và tài liệu trong phim tài liệu và kí sự truyền hình là như thế đấy.

 

Nguyễn Hậu

Facebook Comments