Trò chuyện với tác giả “Mê Kông bốn mặt”

LTS: Đại tá nhà thơ Anh Ngọc là nhà thơ được nhiều thế hệ bạn đọc ưa thích. Thành danh từ năm 1970 – 1972 với giải nhì cuộc thi thơ của Tuần Báo Văn nghệ cho chùm thơ viết về Quảng Trị, đến nay nhà thơ Anh Ngọc vẫn tiếp tục sáng tác đều đặn. Vào dịp đầu xuân 2009, nhân dịp nhà thơ Anh Ngọc được trao Giải thưởng văn học sông Mê Kông lần thứ hai cho trường ca Sông Mê Kông bốn mặt, phóng viên (P.V) tạp chí Văn nghệ Quân đội đã có buổi trò chuyện với nhà thơ về những vấn đề xoay quanh tác phẩm này.

                                           Nhà thơ, nhà báo chiến sĩ Anh Ngọc tại Căm Pu chia năm 1979
P.V: Thưa nhà thơ Anh Ngọc, xin ông cho độc giả Văn nghệ Quân đội biết về hoàn cảnh ra đời của trường ca Sông Mê Kông bốn mặt? 
Nhà thơ Anh Ngọc: Cách đây vừa tròn 30 năm, vào đầu tháng 1 – 1979, khi còn là phóng viên báo Quân đội nhân dân, tôi có dịp sang Campuchia vào thời điểm quân đội ta phối hợp cùng quân đội cách mạng Campuchia vừa tiến vào thủ đô Phnôm Pênh, giải phóng nước bạn khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt. Vào Phnôm Pênh, rồi sau đó đi nhiều nơi trên đất nước Campuchia, tận mắt chứng kiến tấn bi kịch khủng khiếp do bè lũ Pôn Pốt gây ra, đồng thời được chiêm ngưỡng những công trình nghệ thuật kiến trúc kỳ vĩ của nước bạn và được sống trong vòng tay thân ái của nhân dân Campuchia tài hoa và nồng hậu, tất cả đã gợi lên trong tôi những cảm xúc và suy nghĩ dường như bất tận. Và thế là tôi đặt bút viết những dòng đầu tiên ngay trên đất bạn, mà sau này là lời đề từ của bản trường ca: “Tôi bế trên tay một em bé Campuchia đói khát/đến trước tượng người vũ nữ Ăng-co/ và dỗ nín em/bằng cặp vú đá của nàng” . Về Việt Nam, tôi miệt mài viết tiếp, ròng rã đến tháng 3 năm 1981 thì hoàn thành.
P.V: Nhưng đến tận năm 1988 trường ca mới lần đầu ra mắt công chúng. Bảy năm là một khoảng thời gian tương đối dài, nhà thơ có thể cho biết vì sao đến thời điểm đó ông mới xuất bản tập trường ca này không? Phải chăng đó là khoảng thời gian để ông nghiền ngẫm, chiêm nghiệm và sửa sang lại đứa con tinh thần như một số nhà văn khác?
Nhà thơ Anh Ngọc: Lúc viết xong Sông Mê Kông bốn mặt dĩ nhiên tôi cũng muốn in ngay, nhưng hoàn cảnh thời đó việc in ấn rất khó khăn, nhất là với những người viết “chưa già” như tôi ngày ấy. Nhiều bản thảo phải xếp hàng nằm chờ nhiều năm trời. Bản trường ca của tôi cũng không ngoại lệ. Năm 1987, tôi có dịp gặp lại nhà văn Nguyễn Chí Trung ở Campuchia, khi anh đang tổ chức một lớp viết văn trên đất bạn và chính anh Trung đã viết thư giới thiệu tác phẩm của tôi với Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Nhà văn Hà Mậu Nhai khi đó là giám đốc đã quyết định cho in ngay. Tôi còn nghe ai đó nói là chính chị Bích Tiên (vợ nhà văn Mai Quốc Liên), đã tình cờ nhìn thấy tập bản thảo của tôi và có vẻ bị ấn tượng vì lời đề từ nói trên nên chị đã xin nhận làm biên tập luôn. Vì việc này, tôi thực lòng biết ơn Nhà xuất bản và chị Bích Tiên, đặc biệt vì đã cho in bản thảo của tôi mà không sửa một chữ nào! Một may mắn đáng kinh ngạc!
P.V: Đi sâu vào tác phẩm, theo tôi thông thường tên (nhất là của thể loại trường ca) đều là những hình ảnh mang tính biểu tượng cao lặp đi lặp lại trong tác phẩm (như chính trong trường ca Sóng Côn Đảo của ông, hình tượng sóng trở đi trở lại nhiều lần, mỗi lần mang theo một cung bậc, một sắc thái tình cảm và một ý nghĩa biểu trưng khác nhau), nhưng ở Sông Mê Kông bốn mặt, hình tượng con sông Mê Kông tương đối nhạt nhòa mà thay vào đó là sự trở đi trở lại của nhân vât trữ tình tôi. Thưa nhà thơ Anh Ngọc, ông nói gì về điều này?
Nhà thơ Anh Ngọc (cười): Quả đúng như anh nhận xét, hình tượng sông Mê Kông trong trường ca này được dùng với dụng ý khác. Ở đây, nhan đề Sông Mê Kông bốn mặt chỉ mang ý nghĩa gợi mở, nó tựa như một cánh cửa mời gọi bạn đọc đi vào khám khá thế giới ẩn chứa trong đó chứ không thay thế toàn bộ nội dung bên trong như tên trường ca đầu tiên Sóng Côn Đảo mà anh vừa nhắc đến. Chính xác hơn, nhan đề Sông Mê Kông bốn mặt là sự gặp gỡ tình cờ thú vị từ tên gọi nơi hội lưu của bốn dòng sông ở Phnômpênh (người Campuchia gọi là “Sông bốn mặt”) với hình ảnh những pho tượng Bayon bốn mặt ở Ăngco Thom, một điểm tựa ẩn chứa nhiều hàm lượng tư tưởng và cảm xúc, tạo đất đai cho tôi phát triển cảm hứng sáng tạo một cách phóng túng như bản chất của trường ca này.
P.V: Nhà thơ vừa nói đến điểm tựa sáng tác nên trường ca này. Đọc Sông Mê Kông bốn mặt tôi thấy cảm hứng nhà thơ đi từ sự kinh ngạc, khâm phục rồi ngợi ca vẻ đẹp của các công trình kiến trúc – cụ thể là vẻ đẹp của ngôi đền Ăng-co – trên đất Campuchia đến nỗi đau, nỗi xót thương trước những nỗi đau khổ mà người dân nước bạn phải hứng chịu do tội ác của Pôn Pốt gây nên rồi trở lại với những suy tư đời thường cá nhân thông qua hoàn cảnh thân phận trữ tình của nhân vật tôi – một người chiến sĩ Việt Nam – trong mối liên hệ với đất nước mình và dừng lại ở những chiêm nghiệm về cái sự vĩnh hằng và bình dị của cuộc sống. Con đường đi của cảm hứng sáng tác như vậy tương đối dài. Thưa nhà thơ phải chăng Sông Mê Kông bốn mặt không chỉ viết về đất nước bạn Campuchia mà còn viết về Việt Nam, và rộng hơn nữa là về cõi đời này. 
Nhà thơ Anh Ngọc: Đúng vậy. Tôi viết Sông Mê Kông bốn mặt là viết về đất nước bạn và cũng là về đất nước chúng ta. Tôi ngẫm thấy giữa nước ta và nước bạn có nhiều điểm chung. Việt Nam và Cam pu chia vốn là hai dân tộc chiến đấu có chung một lý tưởng chính trị, cùng chung một kẻ thù. Hai đảng cộng sản, quân đội và nhân dân hai nước từng sát cánh bên nhau trong một chiến hào chống quân Mỹ xâm lược. Và cả hai nước, hai Đảng cộng sản đều có những lúc mắc sai lầm. Tuy không thể đánh đồng mức độ và động cơ của những sai lầm, nhưng giữa chúng vẫn có những nét ám ảnh về nhau. Đây là một vấn đề tinh tế và đến nay vẫn còn là nhạy cảm, mỗi người có thể hiểu và lý giải theo cách riêng. Và tôi đã không ngại lý giải nó theo cách của mình trong trường ca này. Tôi không viết về nước bạn theo cách khóc mướn thương vay, mà tôi coi đó là viết về chính mình, từ máu thịt của chính mình. Đó cũng là lý do anh thấy tại sao tôi liên tục quay về với “cái tôi” như một sự chủ tâm. Và tôi rất tâm đắc với hai câu “Trận đánh mới giúp ta lớn vụt/ Ta vượt quá hôm qua, ta đạp đổ chính mình”. Thực tế, tôi đã viết Sông Mê Kông bốn mặt theo kết cấu song song. Cứ một đoạn về Campuchia lại một đoạn viết về Việt Nam thông qua cái nhìn của nhân vật trữ tình tôi. Còn về cái gọi là cõi đời này như anh nói, thì đó là cái lõi sâu thẳm, cái cứu cánh của mọi tác phẩm nghệ thuật có tham vọng muốn đạt đến một giá trị nhân bản đích thực. Cuộc sống cứ trôi đi vừa thường tình vừa ẩn chứa trong đó bao điều kỳ diệu. Con người ta cứ sống được một cách bình thường như cây thốt nốt đứng xanh rờn bất chấp tháng năm mà tôi thấy ở Ăng co cũng đã là một lý tưởng cao vời. Anh thấy đấy, Ăng co vĩ đại nhưng cây thốt nốt còn làm được hơn thế: Còn có trước cả Ăng –co/ là những tàu lá kia mộc mạc/sẽ tồn tại lâu hơn ngàn ngọn tháp/là cái khoảng trời giản dị ấy màu xanh/ cái đỉnh cao không tự huyễn hoặc mình/ cái bóng râm chan hòa ánh sáng/ cái bóng mát dịu dàng không đè nặng…

                                       Đại tá, nhà thơ Anh Ngọc tại Căm pu chia năm 2009

P.V: Vâng, đúng là sống không huyễn hoặc mình là một điều thật khó. Những câu thơ ông viết cách đây 30 năm giờ lại được nhắc đến, được tôn vinh trong Giải thưởng văn học sông Mê Kông lần thứ 2 này. Thưa nhà thơ Anh Ngọc, tâm trạng ông thế nào khi biết Sông Mê Kông bốn mặt được nhận Giải thưởng văn học sông Mê Kông lần thứ 2.
Nhà thơ Anh Ngọc: Tôi từng bị một nhà thơ cho là “khó tính”. Anh ấy nói đúng. Không phải cứ được bất cứ một thứ lợi danh nào đều khiến ta nhẩy cẫng lên. Nhưng với tôi, lần được trao giải hiếm hoi này cũng khiến tôi thấy vui vui.
Trước hết và trên hết, vì tác phẩm được trao giải là tác phẩm mà tôi tự thấy tương đối bằng lòng. Có thể nói trong bốn trường ca (Sóng Côn Đảo, Sông núi trên vai, Sông Mê Kông bốn mặt, Điệp khúc vô danh) thì Sông Mê Kông bốn mặt và Điệp khúc vô danh là hai tác phẩm tôi viết kỹ và chăm chút nhất . Sông Mê Kông bốn mặt phản ánh được phần nào tạng người, tâm thế và lối viết của tôi. Và dĩ nhiên, ai chẳng thấy “vinh dự tự hào” khi đứa con tinh thần mà mình tâm đắc lại được hoan nghênh.
Lý do thứ hai thuộc về sự “khó tính” của tôi như đã nói ở trên: Quy trình xét giải lần này không có điều gì khiến cho tôi phải áy náy vì lòng tự trọng bị xúc phạm. Ở xứ sở chúng ta, một điều tưởng như hiển nhiên như thế mà không phải lúc nào cũng dễ dàng có được.
P.V: Xin cảm ơn nhà thơ về cuộc trò chuyện này. Chúc nhà thơ có thêm nhiều tác phẩm hay.

Đoàn Minh Tâm thực hiện.

Tạp chí Văn nghệ quân đội

Facebook Comments