Đó là những tiếng gào thét say người phát ra từ cái loa công cộng treo trên cây cột điện trước cổng khu ký túc xá của Khoa Văn trường Đại học tổng hợp Hà Nội mà bấy giờ còn toạ lạc bên cạnh chùa Láng, chỗ trường Đại học ngoại thương hiện nay. Cái “lúc bấy giờ” nói tới ở đây là vào những năm đầu của thập kỷ 60 “đỉnh cao muôn trượng” vẫn ngân nga trong thơ ông Tố Hữu.
Ngân nga thì ngân nga thế, nhưng cũng chẳng giúp được gì cho những chàng sinh viên nghèo đến từ tứ xứ chúng tôi vẫn cứ là triền miên trong cơn đói ăn theo nghĩa cúng cơm của từ này, để mỗi buổi xế chiều lại ngồi quây quần bên nhau trấn an cái dạ dày bằng những “bữa ăn qua loa”, tức là để cho chiếc loa phóng thanh từ trên cao kia đến rót vào tai những món ăn tinh thần cao lương mỹ vị, mà đặc sản số một với cái đám già trẻ con non người lớn chúng tôi dạo ấy thì còn gì hơn thứ âm thanh cuồng nhiệt của những đấu trường bóng đá, thứ âm thanh có thể làm “dậy lửa những con tim” đang đập thoi thóp vì sắp cạn ca lo. Tôi nói đùa đấy, nhưng quả thực với tôi, vào cái tuổi chưa biết yêu, dĩ nhiên, – trên đời này dễ không còn thứ âm thanh nào huyễn diệu bằng những âm thanh của bóng đá. Thực lòng, tôi đã bắt đầu “sự nghiệp say mê bóng đá” bằng đôi tai chứ không phải là đôi mắt. Cha ông dạy “trăm nghe không bằng một thấy”, nhưng trong trường hợp này cho phép tôi hồ nghi một chút, bởi hình như thưởng thức bóng đá bằng tai cũng có cái hay riêng của nó. Hay đó là do tài năng thiên phú của các ông anh làm công việc tường thuật bóng đá trên đài phát thanh dạo ấy, đặc biệt là anh Hoài Sơn, người mà sau này mỗi lần được ra sân, cứ thấy anh xuất hiện trên chiếc Chuồng Cu của khán đài B là tôi lại vừa ngưỡng mộ vừa thầm ghen tị. Họ (những Hoài Sơn, Đình Khải, Nguyên Huy Hinh, Vũ Quang Huy….) là những nhà văn có cái biệt tài viết văn bằng miệng mà theo tôi không phải ai cũng có được. Chưa ai tò mò xem các anh ấy tường thuật chính xác đến đâu, vì đại phàm thiên hạ đã nghe thì không xem mà đã xem thì không nghe, – nhưng chính xác là thế nào kia chứ, nếu như anh không làm bốc máu được hàng triệu con tim đang sống dở chết dở vì… yêu, thì bám riết lấy nhất cử nhất động trên sân cỏ phỏng có ích gì. Không, anh đang viết văn kia mà, trận đấu, sân bãi là cuộc đời, cái miệng, cái mic là cây bút và trang giấy…, nói nhanh hay chậm, nói nhỏ hay to, gào thét hay rên rỉ, tặc lưỡi hay xuýt xoa…, tất cả đều mang sức mạnh của nghệ thuật chứ chẳng chơi, không phải chỉ có trận đấu mà là cả trái tim anh đang sôi sục… “Chúng tôi thấy, chúng tôi thấy, trước mắt chúng tôi bây giờ là một rừng áo đỏ…, liệu anh có qua được không…, một cái chân, hai cái chân, ba cái chân…, qua được rồi!… sút đi, sút đi, sút đi…sút, sút…v à à à à à…ò rồi…, ồ không, không vào rồi, tiếc quá, thưa các bạn…” Vâng, đến thế thì hỏi ai còn ngồi yên được cơ chứ. Đói ăn, chứ có đang ốm nặng khéo cũng phải bật dậy.
Đấy, tôi và bạn bè đã bị bóng đá hớp hồn chính là từ những chiếc loa phóng thanh công cộng cóc cáy miễn phí ấy đấy, những chiếc loa đã mở cửa cho trí tưởng tượng của tuổi trẻ chúng tôi bay đến không cùng. Tình yêu đầu tiên, những kỷ niệm đầu đời của tôi về bóng đá đều bắt nguồn từ những cái loa như thế.
Sẽ còn mãi với tôi hình ảnh sôi sục (dĩ nhiên là trong tưởng tượng) của giải bóng đá thế giới 1962 tổ chức tại Chilê, với trận quyết chiến chiến lược của đội Liên Xô vốn thuộc “phe ta” (cái đội cứ ra thế giới là bị trọng tài bắt nạt!) với một đội mà tôi quên mất tên, trận đấu được “cái loa của tôi” mô tả là “sự gay cấn theo chân đến phút chót”, “hai khu vực cầu môn bụi bay mù mịt”, “sân bãi sực nức mùi dầu xoa bóp”, còn ông trọng tài hay thiên vị thì sắp xỉu, cuối trận phải chạy cà nhắc trên sân! Cần phải nói thêm, là những trận bóng đá quốc tế thời chiến tranh lạnh còn có thêm mùi vị đặc biệt của những thành kiến chính trị, mà nói đổ sông đổ bể, với những cuộc tỷ thí giàu chất ăn thua màu cờ sắc áo như bóng đá, thì có thêm tý gia vị của thành kiến không phải không có cái thú riêng. Dĩ nhiên, đã là gia vị thì điều quyết định thành bại là liều lượng, không gia vị thì vô vị, mà gia vị quá tay thì cũng vứt luôn, nghệ thuật ẩm thực phần quan trọng rốt cuộc là nghệ thuật của gia vị. Và bóng đá cũng không khác thế: bóng đá đẹp luôn là sự say mê chiến thắng cộng với tinh thần fairplay theo một tỷ lệ hợp lý.
Chiến tranh đã cướp đứt của tôi hai cái World Cup kỳ thú là cái 1966 ở Anh với cú ăn gian nổi tiếng của trọng tài cho đội chủ nhà và cái thứ hai vào năm 1970 là thời khắc đăng quang lần thứ ba của Pele và đội Brazil của huấn luyện viên Zagalo.
Nhưng không sao, trở về từ Quảng Trị, chúng tôi lại kịp hồi hộp dõi theo giải bóng đá thế giới 1974 ở CHLB Đức với cái bắt tay đầy vẻ gầm ghè thách thức của phù thuỷ Cruyff và hoàng đế Beckenbauer trước trận cầu chung kết kinh điển giữa những cỗ máy làm bàn Đức và cơn lốc màu da cam Hà Lan đang cuồn cuộn bốc cao trên bầu trời bóng đá bấy giờ.
Một kỷ nguyên “thưởng thức bóng đá bằng tai” và xem bóng đá trên báo với tôi đã chấm dứt vào mùa hè năm 1978, khi những thước băng nhựa đầu tiên quay ở nước ngoài được đài truyền hình Việt Nam đem về chiếu lại. Cũ người mới ta, dẫu muộn mất đâu vài tuần nhưng đấy vẫn là một cuộc cách mạng thực sự trong sinh hoạt bóng đá của công chúng nước nhà. Vừa được nghe vừa được nhìn dĩ nhiên là tuyệt vời, nhưng đó lại là một câu chuyện dài dòng khác và phải kể vào một dịp khác. Nếu như tình yêu bóng đá cũng giống như tình yêu trai gái thì nó cũng gồm đủ những giai đoạn và cung bậc rắc rối nhiêu khê, và ngay cả với những lứa đôi hạnh phúc, chồng loan vợ phượng, nhà cửa con cái đề huề thì vị tất con người ta lại không có lúc ước ao được trở lại cái thuở đầu xanh tay trắng, chẳng có gì ngoài niềm háo hức say mê và những giấc mơ về một thế giới mênh mông chưa từng biết tới. Cũng như tôi lúc này, bội thực vì những trận cầu thâu đêm suốt sáng, những màn hình lớn màn hình nhỏ, những cầu thủ triệu phú tỷ phú vừa đá bóng vừa thăm dò giá chuyển nhượng, những trận cầu mà cầu thủ chạy nước kiệu như làm công nhật trên sân, đôi lúc chợt thấy thương chàng trai trẻ của 40 năm trước đã ôm bụng đói mà ngồi nghe tường thuật bóng đá, lại có khi thích thú đứng nhìn lũ trẻ con quần thảo trên vỉa hè sau buổi tan trường, hoặc xem cảnh những đội bóng hàng xã, hàng huyện hồn nhiên tranh tài chân đất mà da diết nhớ một thời. Nhớ một thời của bóng đá hay của chính mình không biết nữa. Như thiên hạ vẫn nói: trẻ là tình, già là nghĩa, – tình yêu bóng đá cũng không ra ngoài quy luật ấy chăng ?
17-6-2005
Anh Ngọc
Facebook Comments