Những người bạn và một thời văn nghệ

Chuyến đi thực tế đã để lại những dấu ấn khó quên. Nó góp phần giải tỏa những vướng mắc trong tư tưởng mỗi người sau một thời gian làng văn nghệ có nhiều xáo trộn. Cuộc sống lao động với những người lính đã giúp các ông có thêm niềm hứng khởi trong công việc. Các ông đã chia sẻ cùng nhau bao niềm vui và nỗi lo trong đời thường cũng như trong sáng tác nghệ thuật. Bao ngày nắng chang chang, bao đêm đông buốt giá, họ đã giãi bày cùng nhau những băn khoăn lo lắng về gia đình con thơ vợ yếu. chuyện cơm áo gạo tiền, những ưu tư dằn vặt về các mối quan hệ giữa các đồng nghiệp…

Bốn thành viên của tổ Điện Biên: Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn Nguyễn Tuân, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, nhạc sĩ  Nguyễn Văn Tý, mỗi người một hoàn cảnh, một cá tính khác nhau. Ở Hà Nội họ cũng có dịp gặp gỡ chuyện trò với nhau, nhưng khi lên Điện Biên sống cùng nhau một thời gian khá dài trong cùng một môi trường, mọi người có điều kiện gần gũi và hiểu rõ về nhau hơn.

 

Nhà văn Nguyễn Tuân ( giữa) họa sĩ Bùi Xuân Phái ( bên trái) và nhạc sĩ Văn Cao ( bên phải)

Chuyến đi thực tế đã để lại những dấu ấn khó quên. Nó góp phần giải tỏa những vướng mắc trong tư tưởng mỗi người sau một thời gian làng văn nghệ có nhiều xáo trộn. Cuộc sống lao động với những người lính đã giúp các ông có thêm niềm hứng khởi trong công việc. Các ông đã chia sẻ cùng nhau bao niềm vui và nỗi lo trong đời thường cũng như trong sáng tác nghệ thuật. Bao ngày nắng chang chang, bao đêm đông buốt giá, họ đã giãi bày cùng nhau những băn khoăn lo lắng về gia đình con thơ vợ yếu. chuyện cơm áo gạo tiền, những ưu tư dằn vặt về các mối quan hệ giữa các đồng nghiệp…

Những người lính văn nghệ đã nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh. Cùng với việc lao động chân tay, họ lại hăm hở với các hoạt động văn hoá văn nghệ của đơn vị và chuẩn bị cho các dự định sáng tác của mình. Không chỉ là những người đi thực tế, họ đã thực sự là thành viên đóng góp công sức vào sự phát triển của Sư đoàn 316. Nhật ký của cha tôi đã ghi lại một phần các hoạt động đó.

20/8/58. Ngày cuối cùng ở Sư đoàn bộ. Viết bài ký “Từ Mộc Châu lên Điện Biên” suốt ngày, buổi trưa anh Tuân phải cho 1 cốc càfê chống ngủ.

22/8. Xuống trung đoàn bộ 176. Sáng nghe đ/c Hồng chính uỷ trung đoàn nói chuyện về tình hình sản xuất ở các khu vực nông trường và phân công 3 anh em Tuân Tý Thuận xuống ba D. Chiều và tối viết xong bài ký (độ 3.600 chữ), gửi về và viết thư cho Đào Xuân Quý, Tế Hanh và thư cho Khánh. Anh Tuân và Tý đi căng tin sư đoàn và đi gặp anh Tưởng.

26/8. Sáng vẫn mưa. Cùng Tý nghe bài tuỳ bút “Đường lên Điện Biên Phủ” của anh Tuân. Chiều làm việc vào Tấm Cám. Trưa góp ý kiến bài thơ “Sáng nông trường” của Lê Túc. Tin mấy hôm nay: Đại hội đồng Liên hợp quốc ra nghị quyết: Anh Mỹ phải rút quân ra khỏi Li Băng.

Tối xem 1 tập Quân đội nhân dân tháng 6 và 7/1958 để hiểu thêm tình hình quân đội.

13/7 âm lịch. Trăng sáng vằng vặc trên doanh trại và rừng núi chung quanh. Giờ này chắc 3 con Vũ Hiệp Điền đã ngủ. Tuần sau sẽ là trung thu của các con rồi. Năm ngoái những ngày này anh chị em Cổ Phong còn ở trên Dịch Vọng tham quan đội chèo T.Ư và học chị Dịu.

27/8. Anh Tuân và Tý xuống D11 và D10. Buổi sáng mình làm việc 1 ít vào cảnh ngày hội Tấm Cám…

Đêm, nói chuyện với đ/c Kim, trong đầu nảy ra ý chuyện phim “Người con gái Điện Biên”. Viết thư về Cục Tuyên huấn đề nghị trang bị máy chiếu bóng cho sư đoàn Điện Biên.

31/8. Sáng ra nông trường.

Tối nói chuyện với anh em tổ sản xuất 1. Được biết bài thơ “Nhớ 1 ngày thiếu muối” đã in dùng trong sách Quốc văn lớp 3 cho bộ đội học, do Tổng cục chính trị in năm 1958.

2/9. Sáng đi chợ với anh Tuân, nghe đài Hà Nội tường thuật buổi lễ. Cùng 2 anh Tuân, Tưởng hội ý công việc ngay tại chợ. Cơm sáng liên hoan với các đ/c. Trước đó chụp 2 kiểu ảnh với các cán bộ trung đoàn và với anh a.Tuân.

16/9. Sáng tiếp tục chép Tấm Cám, ngồi cạnh anh em B1 đang thảo luận về điều lệnh. 3 giờ chiều lên sư đoàn bộ dự hội nghị chiến sĩ thi đua sư đoàn sẽ họp vào ngày 19/9. Gần 5 giờ lên đến nơi bập vào buổi họp tổ mà các anh Tuân, Tưởng, Tý đã tiến hành. Sau cơm chiều đi căng tin với 2 vị Tuân, Tý. Đêm nằm nói chuỵện với Tý khá khuya.

18/9. Đêm làm việc khuya. Trong khi đó ở gian nhà giữa Nguyễn Văn Tý làm xong bản nhạc “Trở về Điện Biên” rất thú.

19/9. 7 giờ 30 cùng cả tổ dự khai mạc Đại hội chiến sĩ thi đua sư đoàn. Chiều ở nhà trao đổi về nghệ thuật với Tý. Tối xem phim “Anh hùng sao vàng” sau 1 chầu kem đặc biệt ở căng tin với tổ.

20/9. Sáng dự nghe báo công. Chiều tối ở nhà chép xong phần chú thích vào vở Tấm Cám. Xem cuốn “Cách mạng Tây Sơn” của Văn Tân.

Anh Tưởng nhận được giấy báo chuyển tiền cho tổ ở ngân hàng Điện Biên.

22/9. Sáng dự bế mạc Đại hội ở hội trường. Anh Tưởng phát biểu nhiệt tình thay mặt anh em. Lần đầu tiên thấy bộ quân phục chính quy nơi người đ/c chính uỷ Nguyễn Kiệm, cấp thượng tá.

  Các cán bộ D9 lên cho biết: ở nhà đánh điện lên bảo gửi vở về ngay. Vừa khớp.

Xế trưa, cùng các anh Tuân Tưởng Tý về trung đoàn. Chiều giặt quần áo. Đêm ngủ bên nhà hậu cần sau một buổi đàm đạo trong tổ về nghệ thuật văn chương. Anh Tưởng nêu vấn đề: cái emopléc của thơ Đường phải có trong sáng tác của thời đại chúng ta.

 

Nhà văn Nguyễn Tuân (phải) và nhà thơ Lưu Quang Thuận.

24/9. Về C3 sớm, tự kéo mảng lấy để qua suối Nậm Rốm. Trao bản lý lịch của mình cho Đàm Tấn. Chiều đi làm sân phơi và nền nhà kho thóc. Về sớm với anh em, tắm suối.

 Trăng vằng vặc trên bản Pa Phay. Đã 12/8 âm lịch. Trong bản và có lẽ trong vùng Điện Biên không có tết trung thu. Nhớ các con.

Xong vở chèo, thoải mái trong người. Bắt tay vào những sáng tác khác.

25/9. Sáng đi sớm, qua các bản Pa Lếch, Cò Mỵ, Pa Pe. Ngồi ở bưu điện viết thư gửi luôn cho Khánh và Điền. Hôm nay sinh nhật thằng Tý Bé. Cũng ngày này 5 năm trước bố đang ở xóm An Ninh xã Tích Hương Thái Nguyên.

26/9. Sáng sớm viết bài báo “Lúa chín giữa nông trường Điện Biên” dưới hình thức thư gửi Bàng Sỹ Nguyên. Sau cơm chiều cùng Tấn lên trung đoàn. Ngủ lại C17 bên cạnh giường anh Tưởng; chữa bài báo theo ý kiến Tưởng góp. Viết thư cho Khánh và một thư cho toà soạn Văn học.

4/10. Sáng sớm lên trung đoàn dự hội nghị sản xuất. Họp cả chiều có anh Tuân, Tưởng và Thụ điện ảnh dự.

Chiều ra phố gặp Từ Bích Hoàng mới lên hôm qua. Đêm hội ý giữa Thụ và Tuân, Tưởng, Thuận về việc kết hợp trong việc dựng kịch bản cuốn phim Điện Biên. Nằm xem 9C Flốt tập 2 đến 4 giờ đêm mới ngủ.

7/10. Sáng sớm lên sư đoàn nói chuyện thu nhặt thơ văn toàn sư đoàn. Nghỉ trưa chỗ nhà khách với Nguyễn Viết Thành và Doãn Nho. Chiều ghé qua căng tin ăn phở với anh Tuân ở công trường. Gửi thư cho Khánh và thư cho Tế Hanh, Chế Lan Viên. Văn Học số 13 ngày 25/9/1958 đã đăng “Thư từ rừng núi hoa ban” của anh Tưởng. Tưởng đi Mường Pồn chiết cam mấy hôm. Về lối Pa Pe ghé gặp Tý ở Cò Mỵ. Đêm ngủ sớm vì nhọc. Anh Vinh cho mượn ba số “Temps Nouveaur” 33, 34, 35/1958. Anh Tuân, Tưởng và Tý nhận một lúc 7 cái thư. Sốt ruột và mong thư Khánh.

1/11. Sáng, đ/c Nhất phó chính uỷ quân khu Tây Bắc tiếp cả tổ, tán thành hướng công tác mới do Tưởng trình bày, đề ra 1 ít yêu cầu của bộ đội. Chiều và tối cùng Tưởng làm báo cáo, mặc kệ ngoài bãi E bộ chiếu phim “Bên vũ đài”.

3/1…Trưa nhờ đánh máy xong báo cáo, sang C17 cùng anh Tưởng đọc lại, để gửi về Hà Nội. Chiều sang Cò Mỵ báo với Tý tin ngày mai 4 anh em đi Tây Trang. Tối cùng Doãn Nho hoàn chỉnh lời bản nhạc.

4/1… 8h30′ ra đi với Tuân,Tưởng,Tý. Qua các bản Long Nhai, Hồng Cúm, Cò Cang, Bản Phủ đến Pom Lót ở cây 98 lúc 10 giờ 20. Được tiếp ở D bộ 959 biên phòng. Báo Nhân dân đăng tin hôm 22/10 ở Hà Nội đã có cuộc họp để tiễn 66 anh chị em đi thực tế đợt hai, đầu năm 1959 về tổng kết.

6/11. Đi 8 cây số đường cứ lên mãi. Trưa đến Tây Trang. Chiều được đưa đi thăm chỗ giáp với ta và Lào. Tối, buổi họp mặt thân mật với đại đội biên phòng Tây Trang. Anh Tuân, Tưởng nói chuyện Liên Xô, Tý hát, mình đọc thơ. Đêm ngủ gió rào rào.

Mùa gặt trên cánh đồng Điện Biên

Chuyến công tác đã để lại trong cha tôi những ấn tượng đậm nét. Ông viết cho mẹ tôi trong một bức thư:

23/11/1958

 Em và các con!

Anh lên Nông trường bộ để họp tổ với 7 anh em văn nghệ (lúc này tổ Điện Biên được bổ sung thêm 4 họa sĩ: Đông Lương, Thân Trọng Sự, Huỳnh Văn Gấm, Quốc Hùng). Mấy hôm nữa anh Nguyễn Tuân đi Lai Châu, anh Tưởng về Hà Nội họp Quốc hội. Còn lại 6 anh em. Đèo thêm cái chân tổ phó đâm ra có trách nhiệm với anh em trong tổ, với đơn vị bộ đội, với lãnh đạo ở nhà. Trách nhiệm phải làm, chứ anh cũng ngại lắm… Một biến diễn của anh trong thời gian này là ngại thò cái mặt ra trong các buổi tiếp xúc, họp hành không cần thiết, ngại rời cuốn sách đang đọc, trang giấy đang viết hay luống rau đang tưới. Anh tin rằng sự biến diễn này sẽ bền lâu, vì nó xuất phát từ ý thức cần cù lao động học được của chiến sĩ mà đồng thời đó cũng là yêu cầu của mình…”

Điều đáng quý là sau chuyến đi thực tế các thành viên trong tổ đều nhanh chóng có tác phẩm chào đời. Hạt lúa trên nông trường Điện Biên ngày ầy có giọt mồ hôi của các nhà văn.Và đồng thời họ cũng có những mùa gặt mới trên cánh đồng văn chương. Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết một loạt tuỳ bút như: Đường lên Tây Tây Bắc, Đi mở đường, Dọn nhà lên Điện Biên, Tây Trang, Phố núi, Xoè, Giăng liềm, Người lái đò sông Đà…

Những tuỳ bút này sau được tập hợp trong tập Sông Đà (NXB Văn học, 1960) – một tác phẩm mang đậm cảm hứng lãng mạn cách mạng, đánh dấu sự kế thừa và phát triển của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có Bốn năm sau (NXB Văn học, 1959), cuốn truyện mang màu sắc sử thi, miêu tả quang cảnh lao động kiến thiết ở Điện Biên bằng ngòi bút tài hoa, tinh tế và thơ mộng.

Lưu Quang Thuận với vở chèo Mối tình Điện Biên, được Đoàn chèo Tổng cục Chính trị dàn dựng năm 1959, được xuất bản năm 1960 và sau này được Đoàn chèo Hà Nội dựng lại. Đã thành thông lệ trong nhiều năm nay, mỗi khi đến dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, vở diễn lại được xuất hiện trên sân khấu, được phát trên truyền hình Trung ương và Hà Nội.

Tác giả chèo Trần Đình Ngôn đã đánh giá: “Mối tình Điện Biên của Lưu Quang Thuận là một trong những mốc son trên con đường thừa kế và phát huy những tinh hoa truyền thống của sân khấu chèo. Với đề tài quân đội nói chung và đề tài Điện Biên Phủ nói riêng, vở chèo Mối tình Điện Biên vẫn là vở kịch hát dân tộc độc đáo, hiếm hoi và còn nguyên giá trị (Tạp chí Sân khấu số 4/1994).

(*) Tác giả là con gái nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận

Lưu Khánh Thơ

CAND.com.vn

Facebook Comments