Những đệ nhất quý bà của báo in thế giới

Truyền thông kỹ thuật số như những đợt sóng hung bạo nhấn chìm báo in toàn cầu vào cơn bão tố khủng hoảng chưa từng có. Nhưng đừng quên rằng, trước đó, báo in đã có một bề dày lịch sử hàng trăm năm oanh liệt với vị thế là loại hình truyền thông thanh thế số 1. Chính trong những tháng ngày vang bóng ấy, báo in đã sản sinh ra nhiều tài năng báo chí kiệt xuất, trong số đó có không ít nhà báo nữ- những người đã thành công trong cái nghề một thời mặc định dành cho phái mạnh. Xin được giới thiệu một số gương mặt trong số đó- những người được mệnh danh là đệ nhất quý bà của làng báo Hoa Kỳ- nơi có nền báo in phát triển bậc nhất thế giới.
Nữ ký giả làm “hoảng hồn” các chính khách

Trong làng báo thế giới nói riêng, làng báo Mỹ nói chung, không nhiều những cây bút có khả năng làm “hoảng hồn” các chính khách tầm cỡ như nữ ký giả Maureen Dowd (tên đầy đủ Maureen Bridgid Dowd). Sinh năm 1952, tốt nghiệp từ trường Đại học Catholic, Washington, Maureen Dowd bắt đầu chính thức bắt đầu nghiệp làm báo của mình từ năm 1974 với chân trợ lý biên tập rời phóng viên… thể thao tại tờ The Washington Star. Sau khi báo này bị đình bản năm 1981, bà làm việc tại tạp chí Time rồi hai năm sau, năm 1983, lại “nhảy việc” sang làm cho tờ The New York Times và chính tại tờ báo danh tiếng này, sự nghiệp của Maureen Dowd cất cánh.

Cái nhìn trực diện và khả năng nhìn nhận, đánh giá các sự vật, hiện tượng một cách sắc sảo, không ngại đụng chạm tới mọi vấn đề đã giúp Maureen Dowd đặc biệt thành công trong thể loại bình luận báo chí. Là cây bút nữ đầu tiên được tín nhiệm giữ chuyên mục của tờ The New York Times (phụ trách chuyên mục mục Opinion-Editorials (Op-Ed: Dư luận- Xã luận)- một trong những chuyên mục “đinh” của báo- Maureen Dowd đã không phụ sự kỳ vọng. Các bài bình luận của bà, với khả năng tụ hội đủ mọi sắc thái: chua cay, khôi hài, nồng nhiệt, hùng hồn đã khiến độc giả khi thưởng thức phải “bùng nổ”. Đặc biệt là các bài bình luận của bà về giới chính trị gia. Việc có cơ hội “bám” sát tới 4 kỳ bầu cử tổng thống và hoạt động như một phóng viên Nhà Trắng lâu năm đã giúp bà hiểu các chính khách hàng đầu nước Mỹ như “lòng bàn tay”. Có lẽ chẳng mấy ai dám làm như Maureen Dowd khi thẳng thừng đả kich những nhân vật quyền lực nhất: từ tổng thống Mỹ Bush, cựu tổng thống Bill Clinton đến Giáo hoàng Benedict XVI. Thật khó tin nhưng sự thật là Maureen Dowd thường gọi Tổng thống Mỹ Bush là “cậu trai nông nổi”, Phó Tổng thống Cheney là “cá chích”. Cựu Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Ronald Rumself bị gọi là “Kỳ quặc” (Rum trong chữ rumself nghĩa rummy- kỳ quái). Thậm chí Bush cha cũng “vinh dự” được bà đặt biệt danh “Bố yêu” hay “Giáo hoàng Bush”. Thậm chí, Maureen Dowd còn hợp tác với Nhà Xuất bản G.P. Putnam’s Sons cho ra mắt quyển sách đầy châm biếm về Tổng thống Bush mang tên Bushworld (tạm dịch Thế giới của Bush). Những bài bình luận của Maureen Dowd gai góc và thuyết phục đến mức, một đồng nghiệp của bà phải thốt lên “đó là người phụ nữ đàn ông không thể chống lại được”.

Sẽ thật thú vị nếu biết rằng một con người chẳng bao giờ ngại ngần đưa ra những lời bình luận “có gang có thép” lại tự nhận mình là người “không chịu nổi sự to tiếng, nhút nhát, mơ mộng, rất hay xấu hổ”. Và ngay cả đến khi đã là một cây bút danh tiếng, đã là chủ nhân giải Pulitzer danh giá, Maureen Dowd vẫn bày tỏ một cách rất thành thật: “tôi không phải là người thích hợp cho công việc này…”.

1. 300 bông hồng và bánh kem đặc biệt cho Helen Thomas

Có lẽ với người làm báo, không phần thưởng nào giá trị bằng lòng tin yêu của độc giả dành cho mình. Helen Thomas- người được mệnh danh là “đệ nhất phu nhân làng báo Hoa Kỳ” – là một trong những ký giả may mắn được sở hữu tài sản vô giá ấy. Năm 2006, bà Helen Thomas đã nhận được 1.300 bông hồng của độc giả từ khắp nước Mỹ gửi tới nhằm bày tỏ sự ủng hộ đối với những câu hỏi hóc búa, thẳng thắn của bà Helen Thomas về tình hình Iraq trong một cuộc họp báo với cựu Tổng thống Bush. Năm 2009, bà được đích thân Tổng thống đương nhiệm Barack Obama tặng bánh kem và chúc mừng sinh nhật ngay tại phòng họp báo của Nhà Trắng.

Nhờ đâu mà một nữ ký giả như Helen Thomas có được những vinh dự hơn người ấy? Xin thưa, đó là nhờ những “chiến tích” mà có lẽ ngoài Helen Thomas không dễ mấy ai có được: 57 năm làm báo thì có tới 40 năm đảm nhiệm cùng một vị phóng viên chuyên trách Nhà Trắng của hãng thông tấn United Press International (UPI); người mà mỗi câu hỏi đặt ra trong mỗi cuộc họp báo đều khiến cả 10 đời Tổng thống, từ John F. Kennedy đến B.Obama phải rùng mình, e ngại; chỉ một phát ngôn cũng đủ làm chấn động cả nước Mỹ. Tổng thống Kenedy từng nửa đùa nửa thật rằng: “Thomas có thể là một cô gái tốt nếu ném đi ngòi bút trong tay và những lời phỏng vấn của mình”. Suốt 40 năm trong chương trình truyền hình trực tiếp về các cuộc họp gặp gỡ của tổng thống đối với giới ký giả, người dân Mỹ luôn thấy bà đứng lên từ hàng ghế đầu nhìn thẳng vào mắt tổng thống để truy vấn. Nhất là từ năm 1975 khi bà được bầu là trưởng đoàn các nhà báo Nhà Trắng (White House Press Corps), sở hữu một chỗ ngồi đặc biệt trong phòng họp báo của Nhà Trắng, thì chẳng vị tổng thống Mỹ nào có thể “né” được những lời cật vấn của bà. Không thể “né” được và cũng bởi Helen Thomas chưa hề “buông tha” đối tượng phỏng vấn nào, thế nên, nói như tờ The Washington Post, mỗi khi người đàn bà này đến gần, các tổng thống đều ngại. Trong “định kiến” của họ “lưỡi bà như con dao, trí tuệ bà như lưỡi kiếm”. Những câu hỏi của Helen Thomas bao giờ cũng là những câu hỏi bất ngờ, thú vị về những đề tài hóc búa khó trả lời nhất, có khi bà truy đến tận những ngõ ngách thâm hiểm của vấn đề. Như khi bà cật vấn tổng thống Reagan về vai trò của CIA trong việc đi đêm với nhóm Contras ở Nicaragoa và trong quan hệ với Manuel Noriega, trùm buôn ma túy ở Panama.

E ngại, thậm chí “ác cảm ngầm” với Helen Thomas là thế, nhưng các ông chủ Nhà Trắng quyền lực vẫn phải nhún nhường “vời” bằng được nữ ký giả sắc sảo này tháp tùng trong các chuyến công du nước ngoài. Nên nhớ, Helen Thomas là nữ phóng viên duy nhất tháp tùng phái đoàn của Tổng thống Richard Nixon trong chuyến viếng thăm quan trọng của ông ta đến CHND Trung Hoa năm 1972. Bà cũng đã đi theo những cuộc viếng thăm chính thức khác của Richard Nixon, rồi Gerald Ford, Jimmy Carter, Ronald Reagan, George H.W.Bush, Bill Clinton, George W.Bush… Không chỉ có tài truy vấn, Helen Thomas được đồng nghiệp nể trọng không chỉ vì già dặn, tích luỹ nhiều kinh nghiệm trong nghề, biết nhiều thứ tiếng một cách thuần thục Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha…mà còn bởi phong cách viết báo sắc sảo, độc đáo, luôn viết rất ngắn, dùng chữ rất chọn lọc, nhiều khi mới lạ. Ở bà vẻ điềm đạm, ít bộc lộ ra ngoài che dấu một tính cách riêng hóm hỉnh, trào lộng một cách thâm thuý. Bà viết 5 cuốn sách, trong đó 3 cuốn được xếp vào lọai bestseller – bán chạy nhất – đó là quyển “Front Row at the White House” (Hàng ghế đầu tại Tòa Bạch ốc), “Listen up, Mr President” (Thưa Ngài Tổng thống, xin hãy nghe) và cuốn “Watchdogs of the Democracy” (Những Người Canh Giữ Nền Dân Chủ), được coi là sách tham khảo không thể thiếu tại các lớp đào tạo nhà báo trẻ.

Tháng 6/2010, vì một quan điểm gây tranh cãi về người Israel, Helen Thomas đã buộc phải từ chức khỏi vị trí phóng viên Nhà Trắng. Tuy nhiên, chỉ gần một năm sau, bước vào tuổi 91, bà được mời làm việc cho tuần báo Falls Church News-Press tại Falls Church, bang Virginia. Tuổi tác dường như không “địch” nổi với lòng nhiệt huyết nghề nghiệp và trí tuệ thiên bẩm của nữ nhà báo kỳ tài này.

Người “hủy diệt” Nixon

Trong suốt hơn 5 năm ở cương vị ông chủ Nhà Trắng, Richard Nixon, bất chấp thủ đoạn, kể cả vi phạm pháp luật, để vận hành triệt để thành công 5 cuộc chiến: chống lại phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam, đảng đối lập Dân chủ, hệ thống tư pháp, chống lại chính lịch sử Mỹ và đặc biệt là chống lại truyền thông. Trong một thu âm từ cuộc họp ngày 22/2/1971 tại Phòng Bầu dục, Nixon đã nói: “Để tiến hành cuộc chiến trong lâu dài, hãy giết các nhà báo. Chúng là kẻ thù. Hiểu không?”. Thế nhưng, đã có một nhà báo, hơn thế, là một nhà báo nữ, bất chấp mọi sức ép, mọi hăm dọa, mọi thủ đoạn “bịt miệng” truyền thông của Nixon, đã mang sự thật ra ánh sáng, đồng thời “hủy diệt” sự nghiệp chính trị chính khách “diều hâu” này. Người phụ nữ kỳ tài và can trường ấy là Katharine Meyer Graham (tên thường gọi là Katharine Graham (1917 – 2001) – Chủ tịch tập đoàn truyền thông Washington Post.

Nếu cha bà, một cựu Chủ tịch Hội đồng trù bị liên bang Mỹ, từng đứng đầu Ngân hàng Thế giới- là người đã mang về một tờ báo tên Washington Post với cái giá 820 nghìn USD, chồng bà- luật sư Philip Graham- là người “nâng cấp” Washington Post từ tờ báo địa phương lên báo toàn quốc- thì phải đến tay Katharine Graham- Washington Post mới phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Không ai, kể cả cha bà, người lúc sinh thời vẫn cho rằng nữ giới căn bản không phù hợp để làm báo (ông không trao quyền điều hành Washington Post cho Katharine Graham mà cho chồng bà) lại có thể tin rằng, 30 năm “điều binh khiển tướng”, Katharine Graham làm thay đổi hoàn toàn số phận Washington Post. Bà không chỉ biến Washington Post từ một tờ báo “dặt dẹo”, trở thành một nhật báo danh tiếng hàng đầu mà còn mở rộng thành một đế chế truyền thông đa ngành nghề (báo, tạp chí, truyền hình).

Bất chấp những nghi ngại của người đời, dũng cảm vượt qua những tự tị, rụt rẽ của bản thân, cả những đơn côi, bất hạnh trong cuộc sống riêng tư (tháng 6/1963, Philip Graham mắc chứng mắc bệnh hoảng loạn về tinh thần và dùng súng tự sát trong phòng làm việc. Katherine thay chồng làm chủ tịch Washington Post), Katharine Graham “tập tành” vào công việc điều hành. Bà học hỏi mọi thứ, từ cả những người dưới quyền. Từ nghiệp vụ cơ bản của báo chí, cách điều hành một tờ báo, một công ty truyền thông như thế nào, đến các cách thức kinh doanh trong thương trường… Nhưng có lẽ, khiếu kinh doanh, điều hành thiên bẩm di truyền từ người cha đã giúp Katharine Graham hấp thụ mọi thứ chóng vánh đến không ngờ. Điều mà những nhân viên của Washington Post thích nhất chính là sự khuyến khích và tôn trọng của Katherine Graham đối với phóng viên, biên tập. Bà thường nói: “Làm báo không nên chỉ đạo các phóng viên, biên tập phải làm như thế nào. Trách nhiệm của người làm báo chính là tận lực truyền tải toàn bộ tin tức một cách chân thực, toàn diện, công tâm và chất lượng nhất”. Bà luôn tin tưởng vào công việc của các phóng viên và biên tập viên, và luôn dũng cảm thừa nhận trách nhiệm của mình

Từ đấy, diện mạo Washington Post dần thay đổi. Một hệ thống cổ hũ, lỗi thời lần lượt nhường chỗ cho sự hiện đại, sáng tạo và đầy tính chuyên nghiệp. Lập trường chính trị của tờ báo từ chỗ luôn phát ngôn cho chính trị, đứng cùng phía với chính trị chuyển sang lập trường của khuynh hướng tự do. Tờ báo dần dần hình thành một phong cách riêng biệt, đó lần theo dấu vết đến cùng trong các vụ điều tra, tin tức nhanh nhạy, tài liệu đáng tin cậy, văn phong sắc nhọn. Điển hình là phi vụ điều tra vạch trần vụ “nghe lén” Watergate năm 1972, làm sôi động chính trường Mỹ, buộc Richard Nixon phải từ chức. Sau vụ việc này, tờ báo được trao giải Pulitzer, vì dám theo đuổi đến cùng vụ Waltergate. Còn nhớ khi sự việc Watergate vỡ lỡ, chính phủ cầm quyền Nixon không ngừng hăm dọa, cảnh cáo ngầm Washington Post. Trong cái không khí khủng bố trắng đó, đối diện với áp lực rất lớn từ phía tổng thống, Katherine luôn khuyến khích, bảo vệ các biên tập viên của mình. Bà tuyên bố thẳng thừng với cấp dưới: “Chúng ta đã bơi đến chỗ sâu nhất của dòng sông, không có đường rút lui nữa”. Câu nói sau này đã trở thành câu nói kinh điển khi nói về sự can trường khi dấn thân người làm báo.

Katharine Graham đã mất năm 2001, thọ 84 tuổi. Và theo như lời Arthur Sulzberger, chủ tịch danh dự tập đoàn New York Times, “trong suốt nửa sau thế kỷ 20, bà đã sử dụng sự thông minh, lòng can đảm và sự mưu trí của mình để thay đổi nền báo chí Mỹ, và tất cả những ai mong muốn một nền báo chí tự do và vô tư đều sẽ tưởng nhớ bà”.

Nữ chiến binh không bao giờ chịu khuất phục

Jill Abramson- TBT đương nhiệm của “Quý bà xám” (Gray Lady- biệt danh của The New York Times- NYT) từ lâu đã được xem là nữ chiến binh số 1 của làng báo Hoa Kỳ. Biệt danh này Jill Abramson có được là nhờ tính cách cũng như phong cách làm việc mạnh mẽ, không bao giờ chịu khuất phục, thậm chí lạnh lùng đến sắt đá của bà. Đồng nghiệp của bà đã từng ví von rằng khó có thể tìm được một người đàn bà nào mạnh mẽ hơn Abramson, nếu ở Anh quốc có bà đầm thép Thatcher thì NYT có bà đầm xám Jill Abramson. Chính tính cách ấy, phong cách làm việc ấy đã giúp bà nhanh chóng thăng tiến trong sự nghiệp và sở hữu trong tay những cái đầu tiên mà khó ai có được.

Từ khi còn ngồi giảng đường đại học, Abramson đã là biên tập viên mảng Văn hóa của tờ The Independent Harvard và cộng tác suốt 3 năm với tờ Time. Sau khi ra trường, Abramson dành trọn gần một thập niên để làm phóng viên cao cấp cho The American Lawyer, sau đó, năm 1986 (ở tuổi 42) Abramson trở thành chủ bút của tờ pháp lý Legal Times tại Washington. Cá tính mạnh mẽ, muốn bứt phá của Abramson đã khiến bà không muốn tại vị lâu. 2 năm sau Abramson từ bỏ vị trí T BT để về làm phóng viên điều tra cho tờ The Wall Street Journal. Ở vị trí này, bà đã lọt vào mắt xanh của Joe Lelyveld, biên tập viên điều tra kỳ cựu của NYT. Và Jill Abramson trở thành nữ phóng viên điều tra đầu tiên của NYT- tờ báo có tiếng là “khinh thường phái đẹp”. Về NYT, Abramson đã nhanh chóng phá vỡ mọi định kiến lâu đời của tờ báo này về việc phụ nữ làm báo khi liên tiếp có những bài điều tra chấn động mà một trong số đó là loạt bài phanh phui vụ tai tiếng của Tổng thống Clinton với cô thực tập sinh Lewinsky, hay loạt bài phản đối Tổng thống Bush gửi quân tham chiến ở Iraq. Cách viết thẳng tưng đến lạnh lùng của Abramson luôn là nỗi khiếp đảm của các chính trị gia. Nhiều người bảo sự lạnh lùng của Abramson có thể khiến núi lửa đóng băng. Nhờ những bài viết chấn động ấy, Jill Abramson nhanh chóng , từ “nữ phóng viên thị phi” trở thành con cưng của NYT và trở thành nữ trưởng chi nhánh đầu tiên của NYT tại Washington. Không dừng lại ở đó, sau khi chiến thắng trong cuộc đấu quyết liệt với TBT Howell Raines, buộc ông này phải cuốn gói ra đi, Abramson được đề bạt làm nữ trưởng ban đầu tiên của NYT. Và ít lâu sau, tháng 9/2011, Jill Abramson lại tạo nên một cái đầu tiên lịch sử nữa: trở thành nữ tổng biên tập đầu tiên của NYT. Nên nhớ là trong lịch sử tồn tại 160 năm của mình, NYT chưa bao giờ cất nhắc nữ nhi vào các vị trí chủ chốt. Truyền thông Mỹ đã sửng sốt tới mức gọi sự kiện đó là “một thắng lợi lớn của phụ nữ trong làng truyền thông”.

Thành công lớn nhất của Jill Abramson trên cương vị TBT cùa NYT là lèo lái thành công con thuyền danh giá đi qua cơn bão tố khủng hoảng báo in và hoàn tất thành công cuộc cách mạng kỹ thuật số. Jill nhanh chóng hợp nhất hoạt động của ban báo mạng và các ban báo in, giúp cho việc đưa tin giữa website www.nytimes.com và tờ báo giấy được đồng nhất và suôn sẻ. Bà cũng thấy được rằng, báo mạng không đơn giản là chỉ có chữ và chữ, Jill muốn tờ New York Times phải sẵn sàng để có thể đưa thêm nhiều thông tin khác bao gồm video, các loại hình ảnh tương tác và có mặt trên nhiều thiết bị khác nhau. Chính nhờ những nỗ lực của bà, “Quý bà xám” được cứu khỏi cơn khủng hoảng kinh tế, trở thành tờ báo điện tử có lượng truy cập hàng đầu thế giới.

Thư Anh

Theo congluan.vn

Facebook Comments