Hình dung ngữ và khả năng sáng tạo của nhà báo

 

 1. Khái niệm
Hình dung ngữ là loại ẩn dụ nhận thức trong đó từ ngữ (đặc biệt là tính từ ) giữ chức năng định ngữ cho danh từ đã được dung theo lối chuyển nghĩa từ cụ thể đến trừu tượng , do đó mang một nội dung biểu cảm – cảm xúc nhất định.
(Đinh Trọng Lạc, Sdd, trang 66)
Sự đặc sắc của biện pháp này là cho phép người viết sáng tạo từ dựa trên nhận thức, cảm xúc, trạng thái mang “cái tôi” cá nhân của tác giả, vì vậy, không có một mẫu số chung, không có công thức tạo từ mới cho bất kỳ một người cầm bút nào. Cũng chính vì thế, khi đọc, nghe một tác phẩm báo chí đích thực, người đọc sẽ luôn thấy hứng thú, thấy thú vị trước những phát hiện của người viết. Nói cách khác, người viết đã “nói” hộ người đọc những điều họ hiểu nhưng không dễ nói ra bằng ngôn từ.
Sáng tạo từ dựa trên nguyên tắc của thủ pháp hình dung ngữ yêu cầu nhà báo luôn luôn có những tìm tòi, phát hiện, liên tưởng, và làm mới ngữ nghĩa của từ trên cơ sở chuyển nghĩa từ. Đó cũng lý do vì sao người đọc luôn nhận thấy báo chí là địa hạt của sự xuất hiện từ mới.
2. Một số cách tạo từ mới bằng biện pháp hình dung ngữ
2.1. Tạo từ bằng cách tạo ra những từ vị mới trên cơ sở kết hợp mô hình
Mùa + X: mùa điểm binh, mùa bóng, mùa chiến thắng, mùa thi, mùa Worl Cup
Nóng +X: nóng với Worl Cup, nóng chuyện đất đai đô thị, quy hoạch nóng
X + nóng: vấn đề nóng, điểm nóng, tiền nóng, đường dây nóng
Treo + X: án treo, hứa treo, quy hoạch treo, tiền treo, nhà treo
Chạy + X: chạy trường, chạy lớp, chạy điểm, chạy án, chạy quota, chạy show, chạy diễn, chạy thi đua,
Đời + X: đời ngư tặc, đời làm thuê, đời Oshin, đời tha hương, đời taxi
Thời + X: thời @, thời siêu thị, thời mở cửa, thời WTO, thời không dễ quên, thời tem phiếu, thời “xếp gạch”, thời Internet
Tiền+X: tiền điện, tiền nước, tiền ốm đau, tiền cưới(tiền cười), đám ma(tiền khóc), tiền oshin; tiền chùa, tiền tươi, tiền nóng, tiền thật(làm ăn thật), tiền giả(lam ăn bất chính), tiền rửa, tiền trao tay, tiền sông- tiền bể
Sự xung đột+ X: sự xung đột tôn giáo(giáo phái), sự xung đột tiềm ẩn, sự xung đột kinh tế, sự xung đột sắc tộc(màu da), sự xung đột năng lượng
An ninh +X: An ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tôn giáo, an ninh mạng, an ninh
Ăn +X: ăn chặn, ăn khoét, ăn tay trên, ăn vốn, ăn bẩn, ăn hợp lý, ăn hạn ngạch, ăn tập thể (ăn chung), ăn lẻ (ăn cá nhân), ăn rỗng, ăn tiền, ăn đút lót, ăn hối lộ, ăn giấy, ăn mực, ăn xăng, ăn chế độ…
Không thể kể hết những cách gọi tên mới được các nhà báo sáng tạo dựa trên khả năng kết hợp linh hoạt của danh từ để tạo ra kết cấu cụm danh từ. Đồng thời, sự chuyển nghĩa của mỗi thành tố khi được đặt trong cụm danh từ đã làm nên một nghĩa mới vừa độc đáo lại vừa quen thuộc.
2.2. Tạo từ, cụm từ mang ý nghĩa lâm thời
Tạo từ trên cơ sở của sự đối lập: Bản lĩnh Ba Lan, tinh thần Đức, đỏ – đen mùa Worl Cúp, mù loà vẫn đi về phía trước, người thắng- kẻ bại, kẻ khóc- người vỗ tay, nẻo đi đã chứa nẻo về bao la, khi quan trực tuyến với dân, sống trong thúng, chết về trong thúng…
Tạo từ dựa trên quan hệ liên tưởng: động lắc, “chuyến tàu tốc hành” của nhan sắc, gã đàn ông “mặc váy”, chuyện tình Romeo và Juliet ở Trung Đông, công tử “đồ thuê”, những nhà máy đắp mền, những tour hè “độc”, giấc mơ đánh bắt xa bờ, làng đại học, chuông hoa
3. Phạm vi vận dụng hình dung ngữ
Xét ở góc độ bố cục văn bản, biện pháp này có mặt ở cả các phần bố cục chức năng: tên đề bài báo, tít dẫn, tít chính, tít phụ, sapo, cửa sổ nhưng tần số xuất hiện nhiều nhất với sự nổi trội nhất về sáng tạo,ta sẽ tìm thấy trong phần giải quyết vấn đề.
Tuy nhiên, còn một góc độ tiếp cận khác: tiếp cận trên phương diện thể loại tác phẩm. ở góc độ này, qua khảo sát người viết có những nhận xét có tính gợi mở bước đầu khi xếp theo trình tự sử dụng từ ít đến nhiều, ta có:
Xã luận
Chính luận báo chí
Tự sự (báo chí) như phóng sự, ghi chép, ký
Phiếm luận báo chí. Trong thể loại này, các dạng như nhàn đàm, nói để chơi, tiếng nói nhà văn, nghe-thấy- viết hoặc một dòng (tạm coi là một nhánh của tản văn, với cảm hứng chủ đạo là cảm hứng xã hội), từ ngữ được sáng tạo bằng thủ pháp này khá đắc dụng.
Trong văn bản “Xin tiền của dân”, tác giả Minh Dũng(Tuổi trẻ số 277/2006) đã định danh rất nhiều loại tiền: Tiền thiếu nhi, tiền người cao tuổi, tiền sinh hoạt hè, tiền chất độc da cam, tiền bão lụt, tiền hạn hán, tiền liệt sỹ, tiền bão Xangsan.( Nếu góp thêm vào hệ thống Tiền+X, ta còn có thêm: tiền điện, tiền nước, tiền ốm đau, tiền cưới(tiền cười), đám ma(tiền khóc), tiền oshin,tiền chùa, tiền tươi, tiền nóng, tiền
Trong những văn bản nói về thực trạng việc học của học sinh, sinh viên thành phố, các từ sau được lặp lại với tần số cao: học thật- học giả; học chính – học phụ; học thêm học nếm; học tối học ngày; học cao học thấp, học nâng cao- học cơ bản; học ca
Bởi lẽ, các dạng thức của thể loại phiếm luận là những dạng văn bản cho phép người viết “chạy” theo dòng cảm nhận, suy nghĩ, cảm xúc của người viết. Đó là điều kiện thuận lợi để nhà báo sáng tạo, từ cấp độ nhỏ nhất là sáng tạo từ đến sáng tạo “cốt”, “mạch” của vấn đề.
Tuy thế, không thể nói rằng thể loại xã luận, chính luận báo chí không cho phép nhà báo “múa bút”. Khảo sát chỉ một tập “ẩn số thời cuộc”(Quang Lợi, NXB QĐND 2004), người viết đã thống kê được như sau:
Trong 161 nhan đề bài báo, chỉ có 14 nhan đề không sử dụng các phương thức ẩn dụ
Trong 147 nhan đề còn lại, thủ pháp hình dung ngữ được vận dụng trong 87 nhan đề
Trong toàn bộ tuyển tập, nhà báo Hồ Quang Lợi đã tìm được những cách định danh vô cùng ấn tượng, tạo cảm nhận về một sự độc đáo, không chỉ ở bình diện ngôn từ mà đằng sau ngôn từ là một nhận thức mới mẻ về thế giới mà ta đang sống: cơn bão tài chính tiền tệ, hội chứng đôminô, sự ngã bệnh của một nền kinh tế lớn, món nợ truyền kiếp, cơn sốt tăng trưởng, nhịp đập châu á, kỷ nguyên cất cánh, đường ray của sự sắp đặt, thứ triết lý của kẻ mạnh,nắm đấm bạo lực, cơn lũ bạo lực, sự biến hóa vai diễn, những điểm nhạy cảm và đau nhức trên cơ thể nước Nga, một núi những vấn đề gay cấn, những kẻ sắp đặt thế giới, cái lá nho đạo lý, cái gậy vũ lực…
Chỉ một đoạn văn ngắn sau đây, chúng ta sễ nhận thức được nhiều về tình hình thế giới, về cảm xúc của người viết:
(Tóm tắt nội dung phía trước:Sau cuộc khủng hoảng ở liên bang Nam Tư, tổng thống S. Milôxêvich bị tòa án La- hay xét xử, tổng thống V. Côxtunica, người đoạt quyền lực từ tay ông S. Milôxêvich đang đứng trước nhiều thách thức vô cùng khó khăn, và ông ta đã đề xuất thành lập một mô hình nhà nước Nam Tư mới theo mô hình của lên bang Nga, Mỹ, hoặc liên minh châu Âu).
“Chẳng lẽ liên bang Nam Tư với những đặc điểm lịch sử, địa lý, dân tộc riêng của mình lại có thể phù hợp với cả ba loại mô hình có nhiều khác biệt này hay sao?. Trong “phiên chợ chiều” ảm đạm này của nhà nước liên bang, lời đề xuất của ông V. Côxtunica cũng chỉ được xem như một tiếng rao buồn bã, ít động lòng những người trong cuộc. Trong con mắt của những người trọng danh dự và công lý, phiên tòa xét sử cựu tổng thống S.Milôxêvích chính là tấn trò giễu cợt công lý”
(Quang Lợi, Tấn trò giễu cợt công lý, rút trong tập “ẩn số thời cuộc”, tr 105)
Chỉ rất ngắn thế thôi nhưng đã có tới 3 cụm danh từ đặc sắc: Phiên chợ chiều ảm đạm, một tiếng rao buồn bã, tấn trò giễu cợt công lý. Những cách định danh này cho thấy nỗi buồn và sự bất bình của người viết- buồn cho đất nước Nam Tư, bất bình thay cho những người “trọng danh dự và công lý”
Xét trên bình diện loại hình báo chí, hình dung ngữ là thủ pháp được báo ảnh tận dụng cũng không kém phần đặc sắc. Một đặc trưng của báo ảnh là ngôn ngữ bằng lời chỉ là ngôn ngữ thứ hai sau ngôn ngữ hình ảnh. Ngôn ngữ thường được báo ảnh sử dụng để đặt tên cho tác phẩm. Như vậy, ngôn ngữ hỗ trợ cho hình ảnh tạo nên một chỉnh thể. Vì vậy, đặt tên cho một bức ảnh cũng là điều kiện để hình dung ngữ có “sân chơi” cho mình.
Bức ảnh của Nguyễn Kim Sang ( Tạp chí Nhiếp ảnh tháng 9/ 06) được đặt tên: “Nụ cười nương lá”; Dương Hoàng Hạnh: “Mùa vàng bên khung cửa”; Quang Minh: “Đất trắng”; Thảo nguyên: “Cốt sống nhà nông”
Một số chương trình trên VTV cũng vận dụng phương thức này để gọi tên: Tổ quốc- khúc tráng ca bất tử(VTV1 tối 13/12/ 06), Người đương thời, Người xây tổ ấm, Ký ức thời gian, Chuyện cổ tích bây giờ, Đêm thần tiên, (Nối) vòng tay lớn, Điểm hẹn âm nhạc…
Với báo phát thanh, ở những chương trình giao lưu qua điện thoại mang đặc trưng phong cách hội thoại, cũng xuất hiện những cách “định nghĩa” dân dã, nôm na mang dấu ấn của người giao tiếp.
Trong chương trình “Đối thoại với người nổi tiếng”, đã xuất hiện những cách gọi: kẻ đâm thuê chém mướn, thằng khùng, người “hơi bị” được…
Nhưng có lẽ, nổi trội hơn cả trong việc vận dụng biện pháp này là chương trình quảng cáo. Hàng loạt các cách định danh bằng hình dung ngữ kết hợp với thủ pháp ngoa dụ đã tạo nên dấu ấn rất riêng cho phong cách quảng cáo: phong cách Style, sản phẩm cho tương lai của bé(sữa), căn nhà ước mơ, bia (X) khởi nguồn sinh lực, …
Tiểu kết: Với đặc trưng của biện pháp, hình dung ngữ cho phép các nhà báo sáng tạo từ không ngừng mà vẫn không sa vào lối mòn, nhàm chán. Đặc biệt hơn nữa, sáng tạo bằng phương pháp này, họ không chỉ giữ được sự ổn định phong cách, mà còn góp phần làm phong phú thêm kho từ vựng nước nhà. Hiện nay, xã hội đã chấp nhận nhiều cách gọi tên hiện tượng xã hội mới. Về nguyên tắc sự vận hành của ngôn ngữ, những cách gọi đó có thể trở thành từ toàn dân, từ phổ thông được, dù là mới xuất hiện
VD: Có các từ để nói về đồng tiền như:
Theo mục đích: tiền học, tiền điện;
Theo tính chất: tiền giả, tiền thật
Theo nghĩa chuyển: tiền tươi, tiền nóng, tiền nguội; tiền cười, tiền khóc
Hoặc các cách gọi về sự thiếu minh bạch ở một công đoạn, một “nút” nào đó: cửa trên, cửa dưới, cửa trước, cửa sau, cửa lùi, cửa tiến,cánh cửa an toàn, nếu kể cả cách gọi Cửa + cơ quan(cấp bậc, cá nhân) thì còn nhiều hơn rất nhiều: cửa “Bộ”, cửa hải quan, cửa trưởng phòng…
Tất nhiên, không chỉ là hình dung ngữ, mà lồng trong biện pháp này còn là khả năng lược bớt yếu tố ngôn ngữ (tắt tố) để tạo ra một cách nói ngắn gọn, chặt chẽ.
Ví dụ:cụm “cửa hải quan” là nói tắt của cách nói đầy đủ: cần phải lo ở phía cơ quan hải quan ; cụm từ “ăn ODA” là cách nói tắt mang tính chuyển nghĩa của cách nói đầy đủ:sự đục khoét từ vốn ODA.
Đặng Mỹ Hạnh
Tài liệu tham khảo
1.Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc chủ biên, NXB GD 2001
2.Dụng học Việt ngữ, Nguyễn Thiện Giáp, NXB ĐHQG Hà Nội 2000
3.Các báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Tiền Phong, Sinh Viên, Lao Động…
Nguồn tin: Tạp chí Người Làm báo, số 12/2007

Facebook Comments