Chi tiết trong phim tài liệu ( Bài 11)

 Xin trân trọng giới thiệu bài viết thứ mười một trong loạt bài về phim tài liệu của nhà biên kịch Nguyễn Hậu với tiêu đề ” chi tiết trong phim tài liệu”.

Nhân dân phố Hàng Đào – Hà Nội chào đón những người lính giải phóng thủ đô ngày 10/10/1954

Như đã trở thành một nguyên tắc chung, tác phẩm văn chương nghệ thuật hay báo chí nào cũng đều phải có những chi tiết “đắt”, những điểm nhấn, có khả năng tác động mạnh mẽ tới tâm trí của người thưởng thức, khiến họ không dễ gì quên được. Lẽ đương nhiên, do tính chất đặc thù của từng loại hình mà “chi tiết” cũng được hiểu theo những cách khác nhau. Ví dụ, trong một tác phẩm văn chương, thì đó có thể là đặc điểm ngoại hình của nhân vật, một hành động cụ thể nào đó, nhưng cũng có khi là một câu nói, một tình huống bất ngờ. Chẳng hạn, những câu chữ đầu tiên của Nam Cao trong truyện Chí Phèo: “Hắn vừa đi vừa chửi…” quả là một chi tiết vô cùng đặc sắc, cho thấy tính cách con người khốn khổ ấy là như thế nào. Nhưng khi vào phim Làng Vũ Đại ngày ấy của Phạm Văn Khoa, tiếc thay, những câu chữ ấy chẳng còn hồn vía gì nữa. Đạo diễn không làm cách nào thể hiện được nội dung những câu chửi của Chí Phèo trên màn ảnh, vì phim đòi hỏi cái cụ thể, anh ta đã chửi như thế nào (nội dung, câu chữ, cách phát âm…) trong khi Nam Cao chỉ cần thuật lại nội dung câu chửi, cho đến… cả làng Vũ Đại! chứ không cần viết ra cụ thể Chí Phèo đã chửi những gì và chửi như thế nào. Vì thế qua phim, người ta chỉ thấy một gã lèm bèm: “Mẹ cha nó chứ!” vô hồn, chẳng ấn tượng gì. Mà chửi, và chửi rất bậy dường như là một nét đặc sắc kinh hồn của khá nhiều người Việt, có khi trở thành bài bản và cả một nghệ thuật hẳn hoi như một số nhà văn từng nói đến.

Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ, vào khoảng cuối những năm tám mươi, trong khi cải tạo lại ngôi nhà ở góc phố Bà Triệu – Hàng Khay, kiến trúc sư đã thêm vào những mái ô cho cửa sổ. Ngay lập tức, ngôi nhà như được lột xác, biến thành một công trình khác. Những mái ô mềm mại, duyên dáng đã trở thành chi tiết đắt giá, làm nên “giá trị gia tăng” cho công trình, đến nỗi kéo theo cả một “hội chứng mái ô” trong kiến trúc của một thời. Còn trong bức tranh Hái dừa của làng tranh Đông Hồ, cảnh người vợ kéo váy ra để hứng quả, tự nó đã là một chi tiết rất hay. Với điện ảnh, một loại hình nghệ thuật của trực giác, thì chi tiết lại càng trở nên quan trọng. Làm sao khán giả trên toàn thế giới lại có thể quên đi hình ảnh của anh chàng họa sĩ nghèo và cô nương Rose trong kiệt tác Titanic, khi họ dường như bay lên từ phía mũi tàu, và chi tiết bà cụ Rose ném viên kim cương xuống biển, một lần cho mãi mãi. Sợi dây chuyền dường như cũng có linh hồn; nó quằn quại giãy giụa như cố tìm cách cưỡng lại số phận của mình trước khi chìm sâu vào trong làn nước. Có lẽ chính vì thế chăng, mà trong suốt bao nhiêu năm giảng dạy ở trường Điện ảnh Quốc gia Matxcơva (VGIK), giáo sư E. I. Gabrilovits vẫn thường nhắc đi nhắc lại với các thế hệ học trò: “Các anh các chị đừng nên quên rằng sức mạnh của điện ảnh chính là ở các chi tiết, chi tiết và chi tiết.”

Trang phục của của phụ nữ thủ đô Hà nội năm 1954

Đường phố Hà Nội lặng lẽ trước giờ đoàn quân tiến về giải phóng thủ đô 10/10/1954

Tuy nhiên, nếu như trong phim truyện (và cả phim hoạt hình), mọi chi tiết đều được các tác giả nghĩ ra và sáng tạo nên, thì đối với phim tài liệu lại hoàn toàn khác. Anh ta (hay chị ta) phải đãi cát tìm vàng ở ngoài đời, qua các nguồn tư liệu, tài liệu hay hiện vật có thật vì yêu cầu cốt yếu của phim tài liệu là không được hư cấu hay bịa đặt. Vậy thì có gì giống nhau giữa các chi tiết trong phim truyện và phim tài liệu? Có. Ở chỗ, ngoài những giá trị nội hàm của chúng, chi tiết trong phim truyện cũng như phim tài liệu còn có thêm những ý nghĩa mới được bổ sung để thoát khỏi cái vỏ quen thuộc đôi khi đến tầm thường trước đó, trở thành những ẩn dụ khó có gì thay thế được. Và cũng chỉ khi ấy, chi tiết mới trở nên có sức thuyết phục, gây được ấn tượng đối với người xem. Cũng chính vì thế, mà bông hoa xương rồng trên cát mới trở thành biểu tượng một bà mẹ Việt Nam anh hùng vắt kiệt mình hiến dâng cho đất nước; những bông cỏ lông chông bị gió cuốn, lăn tròn như nói lên số phận của những nữ dân quân anh hùng của một thời đã nhanh chóng bị lãng quên sau chiến tranh, và tiếng khóc của trẻ sơ sinh từ dưới mộ vọng lên thể hiện nỗi đau xé lòng của nữ nạn nhân bị ảnh hưởng chất độc màu da cam, có sinh mà không được dưỡng… Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để tìm ra và sử dụng một cách hiệu quả những chi tiết ấy, tránh sự dễ dãi hay trùng lặp vốn là thứ rất dễ gây nhàm chán cho khán giả. Điều này thì không phải cứ muốn mà làm được, mà nó phụ thuộc vào tài năng và tầm cỡ của người đạo diễn, vì vậy mới có tình trạng, trong một số phim tài liệu dường như cứ bị thiếu đi một cái gì. “Cái gì” ấy chính là chi tiết cho các sự việc, sự kiện và hành động của nhân vật neo vào, góp phần tạo nên sức nặng cho phim.

Những ai đã từng xem Chuyện từ góc công viên của Trần Văn Thủy hẳn là sẽ không quên được hình ảnh đôi mắt trong veo nhưng lại không nhìn thấy gì của cô gái nạn nhân chất độc đioxin; cảnh mờ chồng những gương mặt trẻ trung, xinh đẹp của các thiếu nữ được dùng làm “mẫu” cho người mẹ thợ may… Bỗng nhói lòng, xót xa trước thực tế nghiệt ngã: nếu không có chiến tranh, không có người cha bị nhiễm chất độc màu da cam, thì nạn nhân đang tồn tại trong đời sống thực vật kia đâu đến nỗi nào! Phần kết phim Trở lại Ngư Thủy của Lê Mạnh Thích cũng có một chi tiết như một lời cảnh báo: cháu bé cởi trần chân đất, kéo chiếc thuyền gỗ – đồ chơi tự tạo của trẻ em nghèo vùng biển. Con thuyền nhỏ bé lê đi trên cát trắng, như dấu hiệu báo trước cho cuộc sống đói nghèo của cả một thế hệ mới được sinh ra trên mảnh đất này.

Đạo diễn Bùi Ngọc Hà từng kể chuyện, khi ông làm phim Người không che mặt (1999) có ghi hình một bệnh nhân AIDS đang hấp hối. Giữa lúc còn chưa biết nên miêu tả những giây phút cuối cùng của anh ta như thế nào, Bùi Ngọc Hà tình cờ nhìn thấy những cánh quạt trần trong phòng đang quay chầm chậm. Một tia sáng lóe lên. Ông tắt quạt, cho máy quay ghi cận cảnh những cánh quạt đang chuyển động chậm dần trước khi dừng hẳn. Kết quả, khi xem phim, khán giả thấy cảnh đặc tả đôi mắt vô hồn của người sắp chết; những cánh quạt trần chạy lờ đờ và tiếp đó, trên nền hình ảnh tượng Chúa giang tay ở ngoài trời, là tiếng chuông binh boong, binh boong… như để báo tin, một linh hồn khốn khổ nữa lại vừa rời nơi trần thế. Như vậy, những cánh quạt trần vô tri vô giác đã trở thành một chi tiết “đắt”. Tất nhiên, sau Bùi Ngọc Hà, khó có ai dám sử dụng chi tiết này thêm lần nữa.

Cũng liên quan đến tiếng chuông nhà thờ, là hình ảnh dùng để kết thúc phim Oan nghiệt của Lê Thanh Liên (2000). Lần đầu tiên và duy nhất trong suốt bộ phim, hai cháu bé nạn nhân HIV/AIDS cười giòn khanh khách trong lúc chơi đùa. Nhưng cùng với hình ảnh trong sáng, hồn nhiên của các cháu, với lời bình “những tiếng cười làm xanh lại cả thế gian” là tiếng chuông vang lên đầy lo âu, khắc khoải như báo hiệu cho một bi kịch đang đến rất gần. Hơi tiếc là ở phần mở đầu phim, tác giả đưa ra hình ảnh cháu bé nạn nhân đầu đội khăn tang, vừa đi vừa vấp ngã trên cồn cát. Tiếp theo, là một ngọn cỏ khô cằn bị gió đùa. Một số người đã phản đối vì cho rằng đó là chi tiết hơi phản cảm và đạo diễn đã quá đà khi bắt cháu bé phải đi như thế. Nhưng nếu xét theo lôgíc nội tại của bộ phim, thiết tưởng điều này là có thể chấp nhận được. Có thể, đúng là ở ngoài đời, cháu bé không hề đi trên đúng cái cồn cát ấy. Nhưng trong phim, việc cháu đi lại mang ý nghĩa tượng trưng, là cái có thể đã xảy ra như vậy, chứ không phải chính xác là như vậy.

Những chi tiết rõ nét chiếc xe và trang phục những người lính ngày 10/10/1954

Còn có thể kể ra rất nhiều chi tiết hay trong phim tài liệu, nhưng những chi tiết chưa hay cũng chẳng ít ỏi gì. Chẳng hạn, trong một bộ phim có cảnh đào bới tìm kiếm hài cốt những người đã hi sinh trong chiến tranh. Người thanh niên ngồi dưới hố vừa đưa tay bới, mảnh xương sọ với hai hốc mắt to tròn đã bong ra, đất bụi rơi xuống lả tả, tiếp đó là chiếc lược nhựa đỏ au (còn rất mới!) dài cỡ gần một gang tay. Rõ ràng là tác giả hơi thiếu cẩn trọng khi chuẩn bị đạo cụ, nên khán giả không thể tin được rằng sau bao nhiêu năm, mảnh hộp sọ của người đã hi sinh lại dễ dàng được bới lên như thế. Còn chiếc lược, chỉ có thể vừa được mua và vùi lấp sơ sài. Bởi vì ai cũng biết rằng, trong chiến tranh, lính ta chỉ dùng những chiếc lược nhỏ xíu (để tiện nhét vào túi quần, túi áo) được làm bằng gỗ, sừng trâu hoặc nhiều nhất là mảnh máy bay Mỹ bị bắn rơi. Cũng có lược nhựa đấy, nhưng không phải loại to đùng và không thể mới toanh như thế! Càng tệ hơn, là trong bộ phim nói về một anh hùng tình báo, tác giả lại hồn nhiên để cho nhân vật… cất giấu lá cờ đỏ sao vàng vào bị cói trước khi xuống tàu vào Nam với nhiệm vụ “luồn sâu leo cao” trong hàng ngũ địch! Thử hỏi, như vậy khác gì “lạy ông tôi ở bụi này”?! Và liệu có nhà tình báo chiến lược nào lại dại dột đến như thế hay không?!

 

Nhóm “Trái tim vì cộng đồng” thắp nến tưởng niệm Đại tướng ở tượng đài Lênin, gần địa chỉ 30 Hoàng Diệu. Ảnh: Trang Chóe.

Tất nhiên, ngoài những chi tiết được các tác giả tìm thấy hoặc tạo nên, trong phim tài liệu còn có nhiều chi tiết được lẩy ra từ các nguồn tư liệu. Những chi tiết ấy nhiều khi được thời gian bổ sung thêm giá trị lịch sử dù gần gũi hay xa xôi, mà rất có thể tác giả ban đầu của chúng cũng khó có thể hình dung được. Ví dụ, hình ảnh Bác Hồ nhấc trái mìn lên rồi đặt xuống, sau đó bàn tay Người xòe ra, vỗ vỗ lên đầu nòng của một khẩu đại liên. Đạo diễn Bùi Đình Hạc đã đưa vào trong phim Hồ Chí Minh – Chân dung một con người cùng với thủ pháp dừng hình và lời bình do Nguyễn Đình Thi viết: “Bàn tay Người đã quăng đi mọi trái mìn và bịt chặt mọi nòng súng. Chúng ta muốn hòa bình!”. Bản chất có ý nghĩa triết học của sự kiện đã bật ra từ chi tiết ấy.

 

Nguyễn Hậu

Facebook Comments