Nhà báo Vũ Quang: daotaotruyenhinh.vn xin trân trọng giới thiệu phần hai bài viết của nhà biên kịch Nguyễn Hậu về một nghệ sĩ hàng đầu của Việt Nam- nghệ sĩ nhân dân Bùi Đình Hạc.
Năm 1970, Bùi Đình Hạc bắt tay vào làm bộ phim truyện Đường về quê mẹ (biên kịch Bành Châu – Bùi Đình Hạc), nói về các chiến sĩ công binh quân giải phóng làm nhiệm vụ mở đường cho bộ đội xung kích tiến công quân địch, giải phóng quê hương. Cốt truyện Đường về quê mẹ được xây dựng trên cơ sở những chất liệu có thật về cuộc sống và chiến đấu của đồng bào, chiến sĩ miền Nam trong những tháng ngày gay go, ác liệt nhất. Vì thế, bộ phim đã vươn tới tầm khái quát hóa cao với những hình tượng nghệ thuật làm rung động lòng người.
Trong quá trình thực hiện Đường về quê mẹ, tập thể làm phim đã tỏ ra ăn ý với nhau trong việc xây dựng tính cách nhân vật, sử dụng bối cảnh thể hiện ý đồ tác phẩm và những yếu tố phụ trợ nhằm tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Các diễn viên Lâm Tới (vai Núi), Thế Anh (vai Dư), Hồ Trường (vai Ly)… đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong việc thể hiện hình ảnh người chiến sĩ Quân giải phóng. Đặc biệt nghệ sĩ kịch nói Trúc Quỳnh đã để lại những dấu ấn khó phai về một bà mẹ Việt Nam anh dũng bất khuất, không ngần ngại hy sinh thân mình để giữ bí mật của con đường, một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chiến thắng. Vượt ra ngoài những khái niệm thông thường, hình tượng bà mẹ trong phim đã trở nên hết sức tiêu biểu, đại diện cho tất cả các bà mẹ Việt Nam anh hùng, một lần nữa dường như khẳng định tâm tư của những người lính dù chiến đấu ở bất kỳ đâu, vẫn được đắm mình trong những tình cảm yêu thương của Mẹ, “Xa bầm nhưng lại có bào nhiêu bầm” (Tố Hữu)… Người xem cũng không thể nào quên hình ảnh Dư tươi cười, gọi máy bay Mỹ đến giội bom xuống khu vực nghi binh để bảo vệ tuyến đường; hình ảnh Núi đơn độc một mình vẫn kiên nhẫn vác từng quả bom, bày ra cả một trận địa mìn liên hoàn đánh địch, v.v…
Bộ phim đã đạt được những thành công vang dội. Rất nhiều bạn trẻ lên đường chiến đấu trong niềm xúc động sâu xa do những gì mà bộ phim mang lại, và hai mươi mấy năm sau, Nghệ sĩ Nhân dân Lâm Tới còn nhớ đến một kỷ niệm không thể nào quên trong cuộc đời lao động nghệ thuật của ông. Đó là vào một buổi trưa, sau khi Đường về quê mẹ ra mắt người xem được ít lâu, có một đôi trai gái đến gặp ông. Chàng thanh niên giới thiệu người bạn gái của mình và nói: “Thưa anh Lâm Tới, em đi bộ đội đợt này, vào sinh ra tử, có thể sẽ về hay không về… Nhưng dù thế nào chăng nữa, chúng em cũng sẽ chiến đấu như tổ ba người Núi, Dư, Ly của anh…”
Đường về quê mẹ đã đem lại cho điện ảnh Việt Nam Giải chính của Ban Giám khảo LHP quốc tế Cáclôvy Vary; Giải Nhất chuyên đề về các nước Á-Phi-Mỹ Latinh của LHP năm 1972; Giải Nhất LHP quốc tế tại New Dehli (Ấn Độ) năm 1973. Bùi Đình Hạc cũng nhận được thêm một giải Bông sen Vàng cho bộ phim này tại LHP Việt Nam lần thứ II.
Đạo diễn Bùi Đình Hạc tại hiện trường làm phim Hà Nội 12 ngày đêm
Sau Đường về quê mẹ, Bùi Đình Hạc làm tiếp bộ phim truyện Hoa thiên lý, theo kịch bản của Bành Châu. Có thể nói, ngược lại với Làng nổi của Trần Vũ, đây là một thứ “làng chìm”, phản ánh cuộc đấu tranh của những người nông dân chống lại sự khắc nghiệt của thiên tai, đồng thời chống lại những suy nghĩ lạc hậu, bảo thủ và trì trệ của một số người. Cả bộ phim như một bài thơ và không thiếu những khuôn hình đẹp. Bùi Đình Hạc cũng đã thành công trong việc sử dụng những hình ảnh tư liệu về bão lụt năm 1971, dựng với những cảnh phim do anh chỉ đạo quay. Tuy Hoa thiên lý không giành được giải thưởng cao qua các cuộc liên hoan, nhưng nó vẫn được coi là một bộ phim chững chạc về đề tài nông thôn và là phim Việt Nam có lượng người xem đông nhất trong năm 1973.
Là một đạo diễn điện ảnh từng có tác phẩm về đề tài miền Nam, Bùi Đình Hạc thường băn khoăn, day dứt, mong được trực tiếp gặp gỡ đồng bào, chiến sĩ và làm phim về họ. Anh đã toại nguyện khi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử được mở ra, và cùng với các nhà điện ảnh khác, Bùi Đình Hạc có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng Sài Gòn.
Đêm 30-4 rạng ngày 1-5-1975, chiếc xe chở những người làm phim tài liệu rời Tây Ninh, nhắm thẳng hướng Dinh Độc Lập, Sài Gòn tiến tới. Bùi Đình Hạc, Lưu Xuân Thư và các đồng nghiệp đã ghi lại hình ảnh những lá cờ sao mọc lên suốt dọc đường giải phóng, Tổng thống Dương Văn Minh, Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền và những đại diện của chính quyền Sài Gòn đã sụp đổ tan tành. Các anh cũng kịp tìm gặp, quay phim và ghi lại tiếng nói của những con người đã trực tiếp làm nên chiến thắng cuối cùng như trung úy Bùi Quang Thận, trung tá, chính ủy lữ đoàn tăng thiết giáp Bùi Tùng và cả những tiếng khóc, nụ cười trong ngày gặp mặt… Tất cả đều đã được đưa vào bộ phim tài liệu Sài Gòn, tháng 5-1975. Và, thật cảm động biết bao, khi tác giả của hai bộ phim nổi tiếng về Nguyễn Văn Trỗi lại được gặp gỡ các nhân vật mà anh đã từng thể hiện: Chị Phan Thị Quyên, vợ của người anh hùng; chị X tức Nguyễn Thị Châu; chị Y tức Bảy Thu, tức Trương Mỹ Hoa v.v… Hiện thực và sáng tạo dường như đã hòa quyện với nhau làm một.
Năm 1978 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lao động nghệ thuật của Bùi Đình Hạc. Anh được giao nhiệm vụ làm bộ phim tài liệu về Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin; kịch bản do nhà báo Hồng Hà viết, nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Bác Hồ và những ngày lễ lớn trong năm 1980.
Trong thể loại phim tài liệu của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn là một đề tài có sức hấp dẫn lớn, tạo nên những cảm xúc thành kính, thiêng liên trong tâm hồn người nghệ sĩ. Riêng với Bùi Đình Hạc, điều này lại càng thôi thúc mãnh liệt hơn vì anh đã từng được gặp gỡ và trực tiếp quay phim về Bác. Mặt khác, ngay cả khi chúng ta đã có những bộ phim rất thành công về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại như Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh của đạo diễn Phạm Kỳ Nam; Bảy mươi chín mùa xuân của X.Anvarét (Cuba); Tên người là Hồ Chí Minh của Vermisêva (Liên Xô)… thì đâu phải vì thế mà chúng ta đã có thể yên tâm rằng điện ảnh Việt Nam đã thể hiện được đầy đủ, trọn vẹn con người của Bác.
Bộ trưởng bộ văn hóa Hoàng Minh Giám ( ngoài cùng bên phải) trao huy chương vàng LHP Mát xcơ va cho đoàn làm phim ” nước về Bắc Hưng Hải” 1959 ( Đạo diễn Bùi Đình Hạc – thứ hai từ trái sang)
Được phía bạn giúp đỡ nhiệt tình, đoàn làm phim của ta lên đường sang Liên Xô, nhằm tái hiện lại chặng đường Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin và những hoạt động của Người trong thời điểm đó. Các tác giả bộ phim đã có mặt ở khắp các thư viện, viện bảo tàng, các viện lưu trữ phim ảnh và Viện lưu trữ phim của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Họ đã phải lục tìm, xem xét vô số các tài liệu, mét phim, ảnh chụp; gặp biết bao nhân chứng để xác minh lại từng hoạt động của Bác trong những năm hai mươi ấy… Và cuối cùng, công sức của những người làm phim đã được đền bù xứng đáng. Họ đã tìm thấy tấm hộ chiếu in bằng tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Nga, với cái tên Chen Vang mà đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng để đến Liên bang Xô viết; giấy đi đường và thị thực nhập cảnh qua đồn biên phòng, thương cảng Pêtrôgrát… Nhờ vậy, các nhà làm phim đã đính chính lại được cả một sự kiện lịch sử. Ngày Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô là 30 tháng 6 năm 1923, thậm chí xác định được hôm đó trời nắng, 18 độ dương, chứ không phải Bác Hồ của chúng ta đến Liên Xô giữa mùa đông lạnh giá đúng vào lúc Lênin mất như một số tài liệu trước đó đã ghi. Đoàn làm phim cũng đã sưu tầm được cả bức ảnh con tàu Các Lípnếch đã đưa Nguyễn Ái Quốc tới Pêtrôgrát, những mét phim, bài báo, ảnh chụp, tư liệu… về các hoạt động của Người tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, và cả hình ảnh Người trong cuộc Liên hoan của nhân dân Mátxcơva mừng thắng lợi của Đại hội.
Tuy đã có được trong tay những tư liệu lịch sử vô giá, Bùi Đình Hạc vẫn hết sức chú trọng tổ chức những cảnh quay trên đất bạn; từ ngôi nhà lịch sử số 1 phố Makhôvaia (Mátxcơva), trụ sở Bộ phương Đông trực thuộc Quốc tế Cộng sản – nơi đồng chí Nguyễn Ái Quốc từng làm việc; khách sạn Lux, nơi đồng chí đã ở một thời gian; làng Natrikha (Ucraina), bến cảng Pêtrôgrát… cho đến các đồng chí, cộng sự của Nguyễn Ái Quốc thời đó, như cụ bà Gôlubeva Vaxiépna, cụ bà Páctơ Xamôilôva và một số người khác. Tất cả những hình ảnh, con người, cuộc sống hiện nay ấy đã làm cho bộ phim trở nên sinh động, phong phú hơn rất nhiều.
“Cuốn phim xuân của tình hữu nghị. Bộ phim tài liệu quý mừng ngày thành lập Đảng”… Đó là cách đánh giá, nhận xét chung nhất của báo chí Việt Nam về bộ phim Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin của đạo diễn Bùi Đình Hạc. Nhà văn, nhà báo Thép Mới cũng đã từng viết: “Bộ phim Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin cho ta sống lại, với tính sinh động ít có, một loạt sự kiện giàu ý nghĩa cũng như giàu tình tiết có liên quan đến thời gian Bác Hồ sống và công tác ở Liên Xô lần thứ nhất, từ mùa hè năm 1923 đến mùa thu 1924. Lịch sử quan hệ Việt-Xô phải nói là đã bắt đầu từ ngày 30 tháng 6 năm 1923, khi người con ưu tú nhất của dân tộc ta ghi tên nhập cảnh ở bến cảnh Pêtrôgrát…”
“Điều quý báu nhất là ngay từ ngày đó, khi tên nước chúng ta còn chưa hiện lên trên bản đồ thế giới, bạn Liên Xô, bạn Mátxcơva, nhân dân Xô viết chứa chan tình cảm quốc tế nồng nàn đã dành cho con người Việt Nam ưu tú đó nhiều dấu hiệu cảm tình thật đặc biệt. Bằng chứng lớn là những thước phim mà những nhà điện ảnh Xô viết đương thời đã ghi lại cho chúng ta biết bao nhiêu hình ảnh sống của Người, mà quý nhất là những hình ảnh Người hòa mình trong quần chúng… Xin biết ơn công tác lưu trữ tư liệu lịch sử đã gìn giữ cho chúng ta từng mảnh giấy có ghi nét chữ và tên của Người”…
Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin được coi là bộ phim có nhiều tư liệu lịch sử quý báu nhất tính đến thời điểm đó. Điều khám phá đối với tất cả chúng ta là cuốn phim đã soi rọi ít nhiều ánh sáng vào cuộc đời hoạt động quốc tế sôi nổi, phong phú của Bác. Lần đầu tiên xuất hiện trên diễn đàn Đại hội quốc tế nông dân – lời phát biểu của Người đã chứa đựng một tầm nhìn xa mang tính chiến lược. “Trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp công nhân là người duy nhất có sứ mạng lịch sử lãnh đạo cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng”.
Bộ phim được kết lại bằng hình ảnh một đoàn xe hỏa chạy giữa mùa đông tuyết trắng đi về phương Đông với lời bình: “Bác Hồ đến với Lênin, nối liền Việt Nam với thế giới, nối liền thế giới mới với Việt Nam”. Và người xem có thể cảm nhận rất rõ ý tưởng mà người làm phim gửi gắm: đó là con tàu đưa Nguyễn Ái Quốc về phương Đông, đem theo cả tư tưởng Lênin đến với một dân tộc không chịu bị áp bức, không chịu làm nô lệ, đang sẵn sàng vùng lên làm cách mạng, giành quyền sống cho mình.
Nối tiếp mạch truyện được gợi nên từ Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin, Bùi Đình Hạc lại bắt tay vào làm bộ phim Đường về Tổ quốc. Thực chất, đây chính là câu chuyện kể về chuyến đi đầy những gian nan vất vả của Bác, khi Người sang hoạt động ở Trung Quốc và nhen nhóm phong trào cách mạng ở Việt Nam. Đó là một chuyến đi rất gay go, gian khổ, bởi vì lúc đó, nước Nga cách mạng vẫn chưa dẹp được hết đám tàn quân Bạch vệ. Xe lửa còn thiếu thốn tiện nghi, và phải mất ba tuần mới vượt được quãng đường từ Mátxcơva qua Xibia hoang vắng tới Vlađivôxtốc…
Đoàn làm phim may mắn nhận được sự giúp đỡ của lão đồng chí Đalia, một chiến sĩ cách mạng Xô viết lão thành, khi đó đã hơn 80 tuổi, từng nhiều lần gặp Nguyễn Ái Quốc ở Mátxcơva, cũng đã từng ở khách sạn Lux và sau này gặp lại Bác ở Quảng Châu. Với tư cách như người dẫn chuyện trong phim, lão đồng chí Đalia đã kể lại hành trình của Nguyễn Ái Quốc, xen kẽ vào đó là những hình ảnh, tư liệu và cả những cảnh phim mới được quay, giúp người xem hình dung được một cách cụ thể chuyến đi của Bác.
Rất tiếc là hoàn cảnh lúc bấy giờ không cho phép Bùi Đình Hạc tới Trung Quốc để làm phim. Tuy vậy, anh cũng đã tìm được khá nhiều tư liệu và hình ảnh quý báu về đất nước và con người Trung Quốc vào thời điểm Bác hoạt động ở đó dưới cái tên Lý Thụy. Hơn thế nữa, trong phim còn có cả hình ảnh của Trường lục quân Hoàng Phố; ngôi nhà số 13 đường Văn Minh, nơi Bác mở lớp huấn luyện cán bộ cách mạng đầu tiên cho Việt Nam; mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái, nơi những người yêu nước Việt nam thường lui tới, v.v…
Đường về Tổ quốc dừng lại ở hình ảnh ông Ké Nùng – Nguyễn Ái Quốc, trong bộ quần áo giản dị, trở về Tổ quốc. Bên cột mốc địa đầu, ánh mắt Người rưng rưng… Sau đó là những tháng ngày “cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng” ở hang Pắc Bó, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân làm Cách mạng tháng Tám, giành lấy chính quyền.
Cả Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin và Đường về Tổ quốc đều được trao tặng giải Bông sen Vàng đặc biệt tại LHP quốc gia. Đây cũng chính là sự ghi nhận về công lao đóng góp của đạo diễn Bùi Đình Hạc trong lĩnh vực phim tài liệu về đề tài Bác Hồ. Cũng chính qua hai bộ phim này, người ta thấy tài năng của đạo diễn thêm độ chín và được khẳng định một cách vững vàng.
Nhà thơ Tố Hữu nhận xét: “… Từ những tư liệu chết đã biến thành nhừng đoạn phim rất trữ tình…”. Còn nữ đạo diễn Vermiseva – tác giả bộ phim Tên Người là Hồ Chí Minh thì đánh giá: “Đây là những sáng tạo rất mới của điện ảnh Việt Nam đối với thể loại phim tài liệu trên thế giới”.
Không bằng lòng và thỏa mãn với chính mình, Bùi Đình Hạc vẫn suy tư, trăn trở những dự định làm phim về Bác, bởi anh luôn luôn tâm niệm rằng cuộc đời Bác, đạo đức cách mạng và tấm gương của Người chính là nguồn đề tài vô tận. Dù cố gắng đến đâu cũng không thể miêu tả, phản ánh trọng vẹn được sự vĩ đại, lớn lao mà vô cùng bình dị, khiêm nhường của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc.
Đạo diễn Bùi Đình Hạc và chủ tịch viện hàn lâm điện ảnh Nhật bản Tađao Satô tại LHP quốc tế Fukuôka năm 2003
Với những suy nghĩ như vậy, Bùi Đình Hạc bắt tay vào làm bộ phim Hồ Chí Minh, chân dung một con người, nhân dịp toàn thế giới kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác theo khuyến nghị của UNESCO (Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc). Tham gia bộ phim này có khá nhiều tên tuổi nổi tiếng trong giới điện ảnh như nhà biên kịch Bành Bảo, đạo diễn kiêm quay phim Lê Mạnh Thích, Đỗ Duy Hùng, các nhà lý luận phê bình điện ảnh Trịnh Mai Diêm và Hoàng Thanh v.v…
Nếu như Nguyễn Ái Quốc đến với Lênin giới hạn những hoạt động phong phú của Hồ Chủ tịch trong khoảng thời gian hơn một năm tại Liên Xô; Đường về Tổ quốc làm nổi bật lên hình ảnh một con người của hành động và sáng tạo, nhà tổ chức và lãnh đạo hết sức tài năng, kiên quyết và biết nhìn xa trông rộng, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, tù đày… thì bộ phim Hồ Chí Minh, chân dung một con người lại đi sâu vào những suy tư trăn trở, vào tình cảm, tâm hồn và phong thái của Hồ Chủ tịch, vẽ nên bức chân dung sinh động về Người. Bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta, một mặt chỉ mong muốn có một cuộc sống thanh thản, ung dung, nhưng mặt khác, lại tự nguyện cống hiến trọn vẹn cả cuộc đời và hạnh phúc riêng tư cho sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc. Vừa là một lãnh tụ thiên tài, Bác đồng thời còn là một nhà văn hóa lớn, vừa là nhà chiến lược, vừa là thi nhân. Trong suốt cuộc đời mình, Bác luôn canh cánh bên lòng nỗi lo đào tạo, rèn luyện và trau dồi đạo đức cách mạng cho các thế hệ cán bộ; ra sức trồng cây và cả trồng người…
Được chọn lọc công phu từ khoảng trên dưới ba mươi ngàn mét phim tư liệu, trong đó có những hình ảnh chưa từng được công bố, kết hợp với những cảnh quay mới được thực hiện, Hồ Chí Minh, chân dung một con người đã cho chúng ta một cái nhìn mới mẻ hơn về Bác. Có ai không khỏi bùi ngùi xúc động khi nhìn thấy vị Cha già dân tộc cởi trần ngồi bên bờ suối; hoặc hình ảnh vị Chủ tịch nước cầm một cành cây trên đó phơi chiếc áo vừa mới giặt xong bước đi ngược gió trong thời kháng chiến, và cả những lời lẽ thiết tha, được rút ra từ trái tim, tâm huyết của Người?
Bộ phim Hồ Chí Minh, chân dung một con người, một lần nữa cho thấy tài năng của Nghệ sĩ Nhân dân Bùi Đình Hạc. Phim được chiếu rộng rãi khắp nơi nhân kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của Bác, được sang băng và phát sóng nhiều lần trên vô tuyến truyền hình, đem lại hiệu quả xã hội vô cùng to lớn. Tại LHP Việt Nam lần thứ IX, Bùi Đình Hạc giành thêm một Bông sen Vàng trong đời làm điện ảnh của ông. Cùng lúc, Hồ Chí Minh, chân dung một con người còn đoạt thêm giải Vàng trong Liên hoan phim Truyền hình toàn quốc và giải phim hay nhất trong năm kỷ niệm một trăm năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh của Bộ Văn hóa – Thông tin và Thể thao. Cũng từ ngày đó, hầu như năm nào cũng vậy, cứ đến dịp kỷ niệm ngày sinh nhật Bác, Đài Truyền hình Việt Nam và Truyền hình Hà Nội lại cho phát sóng bộ phim này.
Không chỉ là một nghệ sĩ tài năng, Bùi Đình Hạc còn là một cán bộ quản lý, lãnh đạo có uy tín, được nhiều người mến phục. Ngay từ năm 1968, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ IV, ông đã được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, và suốt 15 năm liền làm Phó Tổng Thư ký Hội Điện ảnh. Từ năm 1976, Bùi Đình Hạc được giao nhiệm vụ Phó Giám đốc, rồi Giám đốc đơn vị anh hùng – Hãng phim Tài liệu – Khoa học Trung ương; tiếp đó làm Phó Cục trưởng, Phó Tổng giám đốc Liên hiệp điện ảnh, rồi Cục trưởng Cục Điện ảnh. Ngoài ra, ông còn đảm nhiệm khá nhiều chức vụ trong đảng bộ, đảng ủy các cơ quan. Có thể nói, năng lực lãnh đạo, điều hành của ông đã hòa quyện với tài năng, tư chất của nhà nghệ sĩ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong mọi việc. Cũng chính nhờ sự quan tâm, giúp đỡ của Bùi Đình Hạc mà một số tác giả trẻ đã tự khẳng định được mình với nhiều tác phẩm đã đoạt giải thưởng cao qua các kỳ Liên hoan phim trong nước và quốc tế.
Do những công lao to lớn và cống hiến xuất sắc trong lĩnh vực điện ảnh, Bùi Đình Hạc đã được tặng nhiều giải thưởng, huân, huy chương và kỷ niệm chương v.v… của Việt Nam và quốc tế. Ông cũng được Đảng và Nhà nước ta phong tặng danh hiệu cao quý Nghệ sĩ Nhân dân ngay từ đợt đầu tiên (năm 1984). Và từ điển điện ảnh toàn thư của Liên Xô đã có một mục từ để nói đến nhà đạo diễn Việt Nam Bùi Đình Hạc.
( Còn tiếp)
Nguyễn Hậu
Facebook Comments