Vì một số lý do, bộ phim truyện sử thi hoành tráng (dự kiến dài 4 tập) đã không ra mắt người xem được vào năm 1998. Tập I, Điện Biên Phủ trên không, được khởi quay từ năm 1997 đến tháng Tư 1999 và công chiếu năm 2002, với cái tên mới là Hà Nội – 12 ngày đêm. Có thể nói, trong lịch sử điện ảnh Cách mạng Việt Nam, chưa bao giờ trong một bộ phim (dài 127 phút) lại quy tụ đông đảo đến thế các nhà biên kịch (Thiên Phúc, Hồ Phương, Hữu Mai, Chu Lai, Nguyễn Thị Hồng Ngát) và các nhà đạo diễn (Bùi Đình Hạc – đạo diễn chính, đạo diễn: Nguyễn Khắc Lợi, Lê Thi, Bùi Trung Hải).
Là một bộ phim kinh điển về đề tài chiến tranh cách mạng Việt Nam, Hà Nội – 12 ngày đêm kể lại cuộc đối đầu lịch sử của quân và dân ta ở Thủ đô với pháo đài bay B52 Mỹ trong trận tập kích chiến lược của địch vào Hà Nội và vùng phụ cận, mà người Mỹ gọi là “Chiến dịch Linebacker II”, còn với chúng ta đó là trận Điện Biên Phủ trên không. Chiến thắng của chúng ta đã buộc người Mỹ phải trở lại ngồi vào bàn đàm phán, ký hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Phim được làm theo phong cách sử thi – anh hùng ca, và mỗi nhân vật đều như một biểu tượng của lòng yêu nước kiên cường, ý chí căm thù giặc và quyết đánh, quyết thắng; phảng phất bóng dáng của những con người có thật ở ngoài đời. Khán giả gặp ở trong phim một tiểu đoàn trưởng tên lửa Đặng Nhân, dứt khoát từ biệt người vợ vừa mới cưới, tìm mọi cách trở về đơn vị trong thời gian sớm nhất để chỉ huy chiến đấu; một Đức đành chịu tội bất hiếu vì không thể ở nhà chôn cất cha mình, để tham gia đánh trả B52 Mỹ; một Trần Đại, người phi công quả cảm dùng chiếc MiG 21 và chính anh làm quả tên lửa bắn tan xác máy bay B52… Bên cạnh đó là sự góp mặt của tư lệnh quân chủng và binh chủng; là Thắng, chỉ huy đơn vị pháo cao xạ trên nóc cầu Long Biên… Thêm vào đó là nữ phóng viên Ngân Hà, bác sĩ Thủy Tiên, các “Tam Đa” văn nghệ sĩ Thủ đô và cả những người dân thường khiến cho bức tranh Hà Nội hào hoa và thanh lịch thời chống Mỹ thêm phong phú và sinh động. Ngoài ra, sự góp mặt của Lili, phóng viên báo Le Monde (Pháp) như một điểm sáng về tình đoàn kết của bạn bè quốc tế đối với chúng ta.
Không phải ngẫu nhiên mà đạo diễn Bùi Đình Hạc đưa yếu tố tài liệu vào trong phim qua việc sử dụng những hình ảnh tư liệu về Hội nghị Paris ở phần mở đầu và phần kết thúc. Đặc biệt, tác giả cũng hoàn toàn có chủ định khi cho chúng ta nghe lại đoạn trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17 tháng 7 năm 1966 kêu gọi toàn dân chống Mỹ cứu nước: “Chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Nhờ thế, tính chân thực của Hà Nội – 12 ngày đêm dường như được nâng lên và có sức thuyết phục hơn, đặc biệt là qua những hình ảnh đen trắng B52 Mỹ cháy trên bầu trời Hà Nội, được ghi lại vào đúng thời điểm ấy. Người xem cũng không khỏi bàng hoàng đau xót khi chứng kiến cảnh đổ nát hoang tàn của Bệnh viện Bạch Mai và khu phố Khâm Thiên, cái chết của bác sĩ Thủy Tiên, nhà báo Ngân Hà và những thường dân vô tội. Tất cả dường như còn nóng hổi tính thời sự chứ không phải là chuyện của mấy chục năm về trước.
Trong phim cũng không thiếu những cảnh rất nên thơ về Hà Nội. Một Hồ Gươm liễu rủ với cụ Rùa nổi lên mặt nước. Một làng quê ngoại ô đầy vẻ thanh bình. Con đò và dòng sông… Tất cả hiện ra sau những bom rơi, đạn nổ kinh hoàng như khẳng định sự sống là bất diệt. Rồi những nét đẹp truyền thống thể hiện qua đám cưới của anh sĩ quan tên lửa; thấp thoáng chân dung một số văn nghệ sĩ; ông chủ quán cà phê có thói quen sưu tầm tranh nghệ thuật… như những người góp phần gìn giữ vẻ đẹp văn hóa và tinh thần của người Hà Nội ngay cả trong những giây phút ngặt nghèo. Phải chăng đây cũng là cội nguồn một phần sức mạnh, giúp chúng ta làm nên chiến thắng?
Qua ống kính tài hoa của nhà quay phim kiêm đạo diễn Bùi Trung Hải, Hà Nội – 12 ngày đêm còn cho chúng ta thấy được phần nào những nét độc đáo của cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại. Một máy bay lên thẳng chở chiếc MiG 21 đi sơ tán. Với sự chung tay góp sức của người dân địa phương, loáng một cái, chiếc MiG dường như đã biến mất trong vườn cây trĩu quả. Rồi trong đêm, hàng trăm người thuộc các dân tộc khác nhau, cầm đuốc thay đèn hiệu cho máy bay ta xuất kích; hoặc kíp trắc thủ của Đặng Nhân và Đức, biết địch phóng tên lửa Sơ-rai, vẫn quyết tâm điều khiển tên lửa ta bay trúng đích rồi mới chịu ngắt sóng, chấp nhận thương vong, miễn sao bắn rơi B52 Mỹ. Người xem không khỏi rơi nước mắt, khi máy bay Mỹ cháy, trắc thủ Đức mở cửa xe chỉ huy bước xuống và chắp tay hướng lên trời, khóc: “Bố ơi! B52 Mỹ rơi rồi!” như một lời tạ tội với cha. Phải vậy chăng mà tại LHP quốc tế Fukuoka (Nhật Bản, 2003), ông Tađao Satô, Chủ tịch LHP quốc tế Fukuoka và cũng là Chủ tịch viện Hàn lâm điện ảnh Nhật Bản đã nói với đoàn điện ảnh Việt Nam: “Bộ phim Hà Nội – 12 ngày đêm là một bộ phim hay, một bộ phim trí tuệ. Trong mỗi trường đoạn, chiến tranh xảy ra rất ác liệt nhưng người xem vẫn cảm thấy người Việt Nam để hòa bình trên chiến tranh, để tình hữu nghị giữa các dân tộc trên sự hằn thù dân tộc. Bộ phim này không chỉ chiếu ở Fukuoka, mà còn sẽ chiếu ở Osaka, ở Tokyo….”. Và người xem cũng không khỏi bật cười vì chi tiết ở cuối phim, khi một cháu bé được bế lên, đái vọt cần câu vào đống xác máy bay B52 Mỹ bị bắn rơi trong đêm vẫn còn âm ỉ khói.
Để có được Hà Nội – 12 ngày đêm như thế, đoàn làm phim đã phải khắc phục không ít khó khăn, trở ngại. Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi diễn ra cuộc đối đầu lịch sử đến bộ phim được hoàn thành. Kinh phí có hạn, cảnh quan cũng đã thay đổi rất nhiều. Các loại máy bay, tên lửa… thời 1972 ấy cũng hầu như không còn nữa. Để có được một bối cảnh gợi nên không khí đau thương ở Khâm Thiên, đoàn làm phim phải dựa vào bối cảnh của một khu phố đang giải tỏa ở thị xã Hà Đông cũ. Và chỉ riêng việc tổ chức cảnh quay người dân làng hoa Ngọc Hà bên hồ Hữu Tiệp cũng chẳng dễ dàng gì.
Tại LHP Việt Nam lần thứ XIV (2004), Hà Nội – 12 ngày đêm đã vinh dự đoạt giải Bông sen Bạc. Sau đó, bộ phim này còn được mời tham gia hàng loạt LHP quốc tế như Cairô (Ai Cập, 2003), Lôcarnô (Thụy Sĩ, 2004), Vesoul (Pháp, 2004), Bình Nhưỡng (Triều Tiên, 2004), Fajr (Teheran, Iran, 2005), Tenerife (Tây Ba Nha, 2005).
Bây giờ thì đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân Bùi Đình Hạc, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 2007 đang sống một cách bình yên bên những người thân trong gia đình tại phố Võng Thị, Tây Hồ, Hà Nội. Ông đã rời xa các chức vụ chính quyền và cũng ít còn cơ hội đi làm phim như trước. Nhưng trong suy nghĩ và tình cảm của ông, điện ảnh vẫn là một đam mê cháy bỏng. Ông vẫn trăn trở, suy nghĩ về thực trạng nền điện ảnh nước nhà cũng như câu hỏi làm cách nào để “nghệ thuật quan trọng nhất trong tất cả các ngành nghệ thuật” ngày càng phát triển.
Nguyễn Hậu
Facebook Comments