Cũng như khá nhiều bạn đồng môn Việt Nam ngày ấy, Bành Châu tự đề ra cho mình mục tiêu học giỏi, không chấp nhận điểm 3 và 4 mà kiên quyết giành toàn điểm 5. Học, để có thêm kiến thức. Học, vì những người ở nhà. Và học, còn vì cả đồng bào, chiến sĩ miền Nam đang đánh Mỹ. Vì thế, cũng dễ hiểu là với Bành Châu, dường như không có một phút giây rảnh rỗi; hết có mặt ở giảng đường lại đến thư viện, khu triển lãm, viện bảo tàng… Học ở bất cứ nơi nào, lúc nào có thể.
Theo quy định của Đảng và Nhà nước ta thời đó, hằng năm, cứ vào dịp nghỉ hè, các lưu học sinh Việt Nam thuộc các chuyên ngành văn hóa nghệ thuật (đặc biệt là biên kịch điện ảnh) lại về nước để chỉnh huấn và học tập chính trị. Một hình thức thực tế, thực tập rất hiệu quả đối với mọi người. Không ít tác phẩm ra đời từ những kỳ nghỉ ấy, và đối với Bành Châu, kịch bản văn học cho bộ phim tài liệu dài hai cuốn nhan đề Hồng Thập tự Việt Nam (đạo diễn Ngọc Quỳnh) cũng không phải ngoại lệ. Dẫu chưa phải là cái gì ghê gớm như chính ông đánh giá sau này, Hồng Thập tự Việt Nam vẫn đánh dấu một bước đường phát triển của Bành Châu, từ một cán bộ tuyên huấn trở thành cây bút chuyên nghiệp, sáng tác cho điện ảnh. Lượng đã chuyển biến dần thành chất, bộ phim ca ngợi tinh thần nhân đạo của một dân tộc từng hứng chịu nhiều đau khổ do thực dân Pháp gây ra, lại được đem dự thi tại chính Liên hoan phim Quốc tế về Hồng Thập tự ở Cannes và được Bằng khen danh dự.
Bành Châu về nước khi cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ xâm lược sắp sửa bắt đầu. Cả miền Bắc chìm trong bầu không khí sục sôi căng thẳng nhưng vẫn bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách ác liệt của kẻ thù. Do có quá khứ gắn bó khá lâu với báo chí và phim thời sự – tài liệu nên mặc dù tốt nghiệp biên kịch phim truyện, vị tân khoa Bành Châu vẫn được biệt phái sang Xưởng phim Thời sự – Tài liệu Việt Nam (cùng với hai đạo diễn Bùi Đình Hạc và Nguyễn Thụ). Vả chăng, thời chiến, phim thời sự – tài liệu với ưu thế tác chiến nhanh, hiệu quả lớn bởi tính chân thực rất cao, trở nên quan trọng hơn bất cứ lúc nào. Mà những người được đào tạo chính quy dài hạn như Bành Châu cho đến thời điểm đó còn rất ít.
Ngày 15-10-1964, phản bội lời hứa với quân du kích Vênêzuêla, bất chấp dư luận trong nước và quốc tế, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã xử bắn người công nhân yêu nước Nguyễn Văn Trỗi tại khám Chí Hòa. Sự kiện ấy đã làm xúc động con tim của hàng triệu người trên thế giới. Ở miền Bắc Việt Nam đã dấy lên cả một phong trào học tập, noi gương người chiến sĩ anh hùng với 9 phút làm nên lịch sử trước họng súng quân thù.
Bành Châu được giao nhiệm vụ viết kịch bản và lời bình cho bộ phim tài liệu dài 2 cuốn về anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Có thể nói, đây là công việc rất khó khăn cho cả đoàn làm phim, vì hầu như không có tư liệu gì về người anh hùng đột nhiên nổi tiếng toàn thế giới ngoài một đoạn phim cực ngắn ở pháp trường mà đoàn kiếm được nhờ một con đường vòng vèo, một phép màu thật sự. Một số hình ảnh tư liệu từ miền Nam gửi ra đã được khai thác quá nhiều, chất lượng kỹ thuật không cao. Phải làm sao, với chất liệu nghèo nàn có trong tay, tìm ra một mạch kể chuyện khác biệt, không nhằm tái hiện chiến công của cá nhân người anh hùng, mà làm nổi bật ý chí chiến đấu, tinh thần hy sinh cao cả của anh trong mối tương quan với khí thế chung từ toàn bộ phong trào rộng lớn của đồng bào, đồng chí đang ngày đêm đấu tranh trên tuyến đầu Tổ quốc, đặc biệt là ảnh hưởng của sự hy sinh ấy tác động trở lại suy nghĩ và tình cảm của hết thảy mọi người.
Kịch bản được nhanh chóng thông qua, hầu như không phải thay đổi, sửa chữa gì nhiều. Thực hiện bộ phim là đạo diễn Bùi Đình Hạc. Phim Anh Nguyễn Văn Trỗi sống mãi trở thành một sự kiện, góp phần vào phong trào thi đua sản xuất và chiến đấu trên miền Bắc, thúc giục, động viên thanh niên lên đường ra trận và sống một cách có lý tưởng, hoài bão, không lùi bước trước bất kỳ hy sinh, gian khổ nào. Bộ phim này cũng đánh dấu một bước phát triển mới trong sự hợp tác rất có hiệu quả giữa Bành Châu và Bùi Đình Hạc, sự hợp tác được bắt đầu từ khi hai người còn đang là sinh viên năm thứ hai ở trường VGIK.
Qua Anh Nguyễn Văn Trỗi sống mãi, người xem không chỉ thấy được chí khí lẫm liệt và sự hy sinh anh dũng của người công nhân yêu nước, mà còn hiểu thêm tính chất cực kỳ dữ dội, ác liệt của cả phong trào đấu tranh chống Mỹ – ngụy ở miền Nam Việt Nam qua những chi tiết đã được lựa chọn kỹ càng. Lời bình trong phim góp phần nâng cao ý nghĩa của từng khuôn hình, đưa người xem cùng đắm mình vào từng diễn biến để trở thành người trong cuộc, cảm nhận anh Trỗi như một người thân của mình. Anh cũng trở thành hình mẫu một lối sống, một nguồn động viên, tấm gương sáng cho đồng bào ở cả hai miền Nam Bắc đang ngày đêm sản xuất và chiến đấu. Âm hưởng lạc quan, đầy chất anh hùng ca đã làm cho bộ phim được nâng lên tầm khái quát hóa rất cao, biến cái chết của Nguyễn Văn Trỗi trở thành bất tử, thành nguồn lực tinh thần mạnh mẽ góp phần cho cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của Tổ quốc.
Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ I, năm 1970, Anh Nguyễn Văn Trỗi sống mãi được trao tặng giải Bông sen Vàng. Trước đó, ngay từ năm 1965, phim đã đoạt Huy chương Bạc, Liên hoan phim Quốc tế tại Mátxcơva lần thứ IV. Phần thưởng này thật sự khích lệ Bành Châu, Bùi Đình Hạc và cả những người làm phim tài liệu Việt Nam nói chung. Nhưng điều quan trọng hơn lại là ở chỗ, thêm một lần nữa, bạn bè quốc tế xa gần có điều kiện hiểu rõ hơn cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Tiếp nối thành công từ Anh Nguyễn Văn Trỗi sống mãi, năm 1965 Bành Châu viết kịch bản và lời bình cho phim Tuổi hai mươi, kỷ niệm hai mươi năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Ngọc Quỳnh đạo diễn. Là một dạng phim tổng kết, thường thì như các bạn đồng nghiệp đùa vui “phim bày hàng tổng hợp”, Bành Châu đã dựa hẳn vào hình tượng lớp thanh niên tuổi hai mươi, tự nguyện cống hiến hết tài năng, sức lực, đảm đương mọi nhiệm vụ cực nhọc nhất, nguy hiểm nhất để góp phần bảo vệ những thành tựu đầu tiên của chế độ, đấu tranh cho một đất nước ngày càng tươi sáng hơn, thịnh vượng hơn trong độc lập, tự do. Cố nhà văn Thép Mới, tác giả lời bình của phim tài liệu Cây tre Việt Nam nổi tiếng, vừa đi B trở ra, tìm gặp Bành Châu, bắt tay, ôm hôn, cảm ơn. Theo Thép Mới cho biết, ông cùng một số bạn bè được xem phim này ở chiến trường, vừa cảm động đến rơi nước mắt, vừa phơi phới vui vì thấy lý tưởng và tâm trạng của mình được phản ánh trung thực trong phim. Lời khen ấy được các tác giả trân trọng như một phần thưởng cao quý nhất do các đồng chí từ chiến trường trao tặng.
Chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc đã lên đến đỉnh điểm của sự ác liệt. Bành Châu được đi thực tế dài hạn ở vùng “cán gáo” Vĩnh Linh. Chính trong dịp này, ông đã viết kịch bản (và sau đó là lời bình) cho phim Một ngày trực chiến, khắc họa chân dung những cô dân quân Quảng Bình đã bắn rơi máy bay phản lực Mỹ ngay trên đồng ruộng – túi bom. Phim do Phan Trọng Quỳ quay phim và đạo diễn. Một ngày trực chiến có một điểm giống Tuổi hai mươi: các tác giả cũng sử dụng hình tượng nhân vật điển hình nhằm khái quát những thành tựu vô cùng to lớn về mọi mặt của cả cộng đồng, tìm ra sức mạnh tinh thần nào đã thúc đẩy các cô gái dám dũng cảm đương đầu với quân thù và lập nên kỳ tích. Thủ pháp này còn được Bành Châu lặp lại dưới dạng khác trong Bước đường thắng lợi (phim về thành tựu 30 năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và một số phim tài liệu nữa về sau. Một ngày trực chiến đã được tặng giải Bông sen Vàng trong LHP Việt Nam lần thứ II (1973).
Theo quan niệm của Bành Châu thì con người với tư cách là những hình tượng điển hình trong nghệ thuật, luôn luôn chi phối các vấn đề về tự nhiên và xã hội, đồng thời lại là nguyên nhân và kết quả của các hiện tượng ấy. Tuy nhiên, muốn để cho các nhân vật thật sự trở thành những hình tượng điển hình thì phải khắc họa được tính cách tiêu biểu của họ. Muốn thể hiện được những tính cách độc đáo, tiêu biểu của nhân vật, không gì tốt hơn là đặt anh ta (hay chị ta) vào thế buộc phải hành động, trong những tình huống điển hình. Và thông qua phương thức hành động của họ, tâm lý, tính cách nhân vật sẽ được bộc lộ rõ ràng.
Là người có sự am hiểu rất sâu về kịch học điện ảnh, Bành Châu cũng cho rằng phim tài liệu không nhất thiết phải có cốt truyện và tính kịch như một yêu cầu cốt tử đối với một số thể loại phim truyện. Nhưng một phim tài liệu hay, bao giờ cũng phải đặt ra được những vấn đề lớn có quan hệ máu thịt với cả cộng đồng, thông qua hình tượng nhân vật, sự kiện và những chi tiết điển hình. Mặt khác, ngoài những giá trị như nâng cao nhận thức và tư duy của người xem, xuất phát từ những hình ảnh có thật, phim tài liệu còn phải đạt tới giá trị tư liệu lịch sử, nghĩa là ghi lại trung thực tâm lý, tâm trạng, cách tư duy, phương thức hành động của con người xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất định, toàn bộ cài hiện thực khách quan ấy phải được phản ánh thông qua nhận thức riêng, rất riêng của người nghệ sĩ. Và, để có được điều này, người làm phim tài liệu nói chung không có cách nào hơn là phải đắm mình vào hiện thực vô cùng phong phú của đất nước, xã hội và cuộc sống để cho cái rất riêng ấy thực sự là kết tinh của toàn bộ hiện thực khách quan. Trong phim tài liệu khó có chỗ cho sự cẩu thả, hời hợt và giả dối, hiện thực trong phim tài liệu vì thế phải là hiện thực chân thực nhất, không tô vẽ hay bịa đặt. Đây cũng là lĩnh vực để các nhà làm phim bộc lộ lương tâm và trách nhiệm của mình.
Phải chăng cũng vì những suy nghĩ như vậy nên Bành Châu luôn luôn cẩn trọng đến mức khắt khe trong từng ý tưởng của ông, và ngay trong những năm tháng đạn bom ác liệt, nhà biên kịch vẫn có mặt ở vùng tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh; lặn lội sang cả Quảng Trị để thâm nhập thực tế, lấy tư liệu làm phim và tận mắt chứng kiến cuộc sống và chiến đấu của quân và dân ta nơi đầu sóng ngọn gió. Như thế, có trường hợp, tuy không viết được hoàn chỉnh kịch bản văn học ngay từ đầu mà chỉ gợi ý, cấu tứ, đóng vai trò “cố vấn” hay chỉ đạo nghệ thuật rồi hoàn chỉnh trong kịch bản hậu kỳ và lời bình, Bành Châu vẫn đưa ra được những kiến giải sắc sảo, góp phần nâng những bộ phim ấy lên một tầm mức mới.
Tất nhiên, dù ở bất kỳ một tập thể hợp tác nào, vai trò của người đạo diễn và quay phim cũng đều vô cùng quan trọng. Bởi vì kịch bản có hay đến mấy đi chăng nữa cũng sẽ trở nên vô dụng nếu chỉ nằm trên giấy, nếu không có sự lao động sáng tạo của đạo diễn và quay phim trong quá trình thể hiện. Hơn nữa, kịch bản phim tài liệu là một khái niệm không dễ được nhiều người nhất trí. Nó uyển chuyển, biến động và nhiều khi mang tính dự kiến những gì sẽ được ghi vào ống kính chứ không thể là cái đã xảy ra như trong thế giới hư cấu, tái tạo hiện thực của phim truyện. Nhưng sẽ thật cực đoan và sai lầm nếu ai đó rẻ rúng, coi thường, hoặc, tệ hơn, phủ định vai trò của kịch bản phim tài liệu. Ta có thể thấy những kết quả khác biệt khi những kịch bản của cùng một nhà biên kịch được các đạo diễn có trình độ tay nghề khác nhau thể hiện; mặt khác, ta cũng lại thấy cùng một nhà đạo diễn ấy, một nhà quay phim ấy đã “cho ra lò” những tác phẩm khác nhau đến thế nào từ những kịch bản văn học của những nhà biên kịch khác nhau. Thực tế cho thấy có những bộ phim dường như được lột xác, trở thành “phim khác” sau khi một nhà biên kịch nào đó xắn tay áo lên, viết lại kịch bản hậu kỳ (căn cứ vào hình ảnh đã quay được) cho đạo diễn lấy đó làm cơ sở dựng lại bộ phim. Và ngay cả khi chỉ đóng một vai trò rất khiêm nhường, như người dẫn đường, người chuẩn bị sân bãi cho đạo diễn và quay phim múa võ, thì đâu phải vì vậy mà các tác giả kịch bản phim tài liệu không còn chỗ đứng thực sự xứng đáng của họ.
Hai anh em, hai nhà biên kịch Bành Bảo, Bành Châu
Duyên nợ giữa Bành Châu và phim tài liệu còn kéo dài cho đến tận sau này, khi ông đã trở về Xưởng phim truyện Việt Nam. Vĩnh biệt khách không mời!; Chi Lăng, và một số bộ phim khác đủ chứng minh cho điều đó. Có thể kể đến những phim mà Bành Châu đã tham gia ở mức cấu tứ văn học trước khi đi quay, viết kịch bản hậu kỳ khi xem những cảnh thực tế đã quay được để dựng lại, viết lời bình để lý giải những cảnh ấy theo tứ mới, như Đầu sóng ngọn gió, Lũy thép Vĩnh Linh (cả hai phim này của đạo diễn Ngọc Quỳnh đều đã được Huy chương Vàng tại LHP Quốc tế Mátxcơva), Tiếng trống trường, v.v… Ông đã viết lời bình cho phim Làng nhỏ ven sông Trà của đạo diễn Nguyễn Phú Mỹ từ chiến trường mang ra hoàn thành công đoạn hậu kỳ tại Hà Nội (phim được giải Bồ câu Vàng tại LHP Quốc tế Lai-xích, CHDC Đức). Đặc biệt, riêng phần lời bình của Bành Châu viết cho Tiếng trống trường của nữ đạo diễn Thanh Huyền đã góp phần đáng kể trong việc đem lại giải Bồ câu Vàng (LHP Quốc tế Lai-xích, CHDC Đức) cho Truyền hình Việt Nam ngay từ khi đài còn chưa phát sóng thường xuyên.
Trong lĩnh vực phim truyện, tuy Bành Châu được trở về hơi muộn, nhưng ông cũng kịp có nhiều thành tựu. Ông là tác giả hoặc tác giả chính của các kịch bản phim Đường về quê mẹ (1972), Đêm Bến Tre (với tên phim là Câu chuyện làng Dừa, 1972), Thằng Bờm (1987), Thằng Cuội (1989, viết sau khi đã chuyển công tác về báo Điện ảnh), trong đó có những phim được giải cao qua các Liên hoan phim trong nước và quốc tế.
Không phải ngẫu nhiên, Bành Châu có tới bốn kịch bản văn học phim truyện được các nhà xuất bản cho in thành sách, trong những tuyển tập dành riêng cho kịch bản điện ảnh. Trong các tác phẩm của mình, với tư cách nhà biên kịch chuyên nghiệp, Bành Châu có ý thức cố gắng dựng nên những cốt truyện tương đối đơn giản nhưng phải cân đối, hài hòa bố cục, tạo những tình huống kịch hợp lý, với sự phát triển dường như đương nhiên của hành động kịch, để cho các tính cách có cơ hội bộc lộ một cách tự nhiên. Ông ghét đối thoại dài, cố tìm những chi tiết hình tượng thị giác và thính giác đơn giản để có thể kể chuyện bằng hình và bằng âm thanh cho mọi đối tượng khán giả ở mọi trình độ có thể hiểu được ngay nhằm đưa người xem dễ dàng nhập cuộc, đồng cảm với nhân vật trong phim.
Xin hãy thử đọc lại hai câu đối thoại của đoạn “Dư ốm” trong kịch bản Đường về quê mẹ:
… Dư sốt cao. Trong cơn mê sảng, anh thều thào gọi: “Mẹ ơi!”…
Bà mẹ của Núi lúc đó đang đứng ngay đầu võng đáp: “Mạ đây, mạ đây!” (*)
Lời chỉ có vậy, (trong phim, nhân vật mẹ Núi do diễn viên Trúc Quỳnh đóng). Nhưng đằng sau tiếng “mạ đây!” là biết bao nhiêu tình cảm của bà mẹ miền Trung với đứa con miền Bắc, gợi nhớ đến câu thơ của Tố Hữu “Xa bầm lại có biết bao nhiêu bầm!”
Hầu hết các chi tiết được Bành Châu đưa vào kịch bản, dù là trăm phần trăm hư cấu, thường đã được tổng hợp, tuyển lựa kỹ càng từ kho lưu trữ khá phong phú do ông cóp nhặt từ cuộc sống. Trong đoạn “đơn vị truy điệu liệt sĩ Núi”, khi bà mẹ tưởng con trai mình đã chết: Bà không gào khóc, cố gắng kìm nén để cho đồng đội của Núi không biết là bà đã nghe được cái tin sét đánh ấy, vì bà sợ ảnh hưởng tới tinh thần những chiến sĩ rồi sẽ đi chiến đấu để trả thù cho con bà. Trong cuộc đời nếm trải mùi vị của bốn cuộc chiến tranh, Bành Châu đã hàng chục lần chứng kiến cảnh tượng bi thương lúc thân nhân đi thu gom di hài của những người tử nạn. Sự kiện ấy gây ấn tượng mạnh nhất, theo ông kể lại, là quy ước không thành văn “không được khóc!” của đồng bào các tỉnh miền Trung, vùng túi bom “cán gáo” cực kỳ ác liệt thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá suốt dọc con đường huyết mạch chiến lược vào Nam. Có lần, trên đường công tác, đến một làng lúc trời sắp tối, ông được chính quyền sở tại bố trí cho nghỉ nhờ qua đêm trong một gia đình chỉ gồm một người mẹ và hai con nhỏ. Gia đình tiếp đãi hết sức chu đáo, để ông ngủ trên chiếc chõng ở nhà trên, còn ba mẹ con ngủ dưới hầm chữ A. Suốt buổi tối, nhà có hàng chục người làng đến chơi, chuyện trò thì thầm gì đó dưới hầm. Thấy đã khuya vẫn còn người đến, ông tò mò, mới giữ một người khác lại, khẽ hỏi nguyên do. Thì ra người làng đến chia buồn; ông chủ nhà này bị chết vì bom bi của Mỹ (trên đúng cái chõng Bành Châu đang nằm), mới an táng lúc trưa. Vì quy ước ngầm “Không được khóc! Hèn mình đi!” nên cả nhà nuốt nước mắt, kiên quyết không để lộ nỗi đau cho người lạ khỏi kinh hoàng. “Cả vùng ni đã tập thói quen như rứa”…
Do đó, chi tiết bà mẹ Núi không khóc không phải hội chứng lên gân hô khẩu hiệu một thời mà là một nhận xét có tính chất khái quát đặc trưng của một thời. Một ấn tượng, một kỷ niệm sâu sắc khó quên.
Thằng Bờm và Thằng Cuội là hai trong bộ ba (trilogie) truyện hài dân gian do Bành Châu viết và được thể hiện thành phim (một phim nhựa, một video). Ý tưởng khai thác vốn cổ văn học dân tộc nảy sinh khi Bành Châu ngồi viết luận văn Hình tượng người chiến sĩ trong phim truyện Việt Nam. Đọc lại một số tác phẩm đã dịch ra quốc ngữ hoặc đã được các học giả sưu tầm, tập hợp lại, để tìm hiểu xem người chiến sĩ Việt Nam xưa (cả người lính và người dân vũ trang chiến đấu) đã được hình tượng hóa theo cách thức như thế nào, ông chợt phát hiện ra rằng kho tàng văn học cổ của ta còn cả một mảng hài, tiếu lâm Việt Nam chưa được điện ảnh chú ý khai thác. Và thế là bộ ba kịch bản “phim hài dân gian” đã ra đời, trong đó kịch bản Chúa Chổm không được tác giả đưa ra trình duyệt vì thực tế cuộc sống đã vượt lên trước ý tưởng sáng tác. Viết Thằng Bờm, Bành Châu có ý nói về chính bản thân mình, nói với những người thân yêu nhất của mình – là con người thời loạn, chịu sự thiệt thòi không được học hành đến đầu đến đũa, phải cố không giấu dốt, không tự mãn mà phải tìm mọi cách vươn lên bằng chị bằng em. Trong Thằng Cuội, ông muốn tìm hiểu xem những sức ép nào buộc con người phải dối lừa, mặc dù anh ta thực sự muốn sống thật thà lương thiện. Suy tư ấy giống một lời hứa, một lời thề với bản thân hơn là một bài lên lớp dạy đời…
Những năm bảy mươi và tám mươi, ngoài việc viết kịch bản, Bành Châu còn là một biên tập viên tận tụy ở Xưởng phim truyện Việt Nam. Công lao của ông chính là ở chỗ dù làm việc với ai cũng rất nhiệt tình, chu đáo, luôn luôn biết cách thuyết phục góp ý nhằm nâng cao chất lượng kịch bản phim. Và một trong những quan tâm hàng đầu của nhà biên tập chuyên nghiệp này là “thúc ép” các tác giả văn học tăng cường kể chuyện bằng hình, bỏ bớt những đối thoại rườm rà “trung tính”, chỉ đóng vai trò thông tin thuần túy và hạn chế những bối cảnh tốn kém không cần thiết. Vì vậy, những bộ phim do Bành Châu biên tập thường tránh được những sơ hở, áp đặt hoặc cách nói năng sách vở, lên gân giả tạo. Một số phim do ông biên tập, dù với tư cách chính thức hay ẩn sau hậu trường, đã đoạt được giải thưởng qua các Liên hoan phim, như Đến hẹn lại lên, Chuyến xe bão táp, Những người đã gặp, v.v…
Sẽ không phải là quá đáng, nếu ai đó cho rằng Bành Châu là một trong số rất ít nhà biên kịch điện ảnh Việt Nam có trình độ học vấn sâu rộng về nhiều mặt. Ông luôn luôn chịu khó học tập, nghiên cứu đủ mọi thứ và ở bất cứ chỗ nào. Cũng hoàn toàn không phải tự nhiên mà Bành Châu trở thành một trong những Phó Tiến sĩ, Phó Giáo sư đầu tiên của ngành điện ảnh. Các đề tài nghiên cứu khoa học, chuyên khảo, luận văn… của ông đã nêu được những vấn đề lý luận mới mẻ, đồng thời có giá trị thực tiễn nhất định, nên thường được đánh giá cao. Ví dụ như cách thức xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong văn học nghệ thuật truyền thống, những bài học rút ra từ cách tạo dựng hình tượng người chiến sĩ (bộ đội và dân thường) trong điện ảnh cách mạng Việt Nam, những ưu thế và hạn chế lịch sử của nó; những cái nên và không nên trong việc tiếp thu truyền thống sân khấu dân tộc vào điện ảnh…
Tất cả những tìm tòi công phu ấy của Bành Châu đã được ứng dụng một cách có hiệu quả vào sáng tác cá nhân, công việc biên tập kịch bản, việc làm báo và đặc biệt là công tác đào tạo và giảng dạy được bắt đầu từ năm 1965 theo yêu cầu của lãnh đạo Bộ Văn hóa, từ Trường Điện ảnh Việt Nam (trung cấp) đến Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, từ Đại học Văn hóa (lớp dạy viết văn Nguyễn Du) đến khoa Báo chí của Đại học Tổng hợp v.v… Cho đến nay, nhiều học sinh cũ của Bành Châu đã trở thành các nhà biên kịch, đạo diễn, quay phim có tiếng hoặc phóng viên, biên tập viên các báo, đài. Không ít người đã đoạt giải thưởng cao qua các Liên hoan phim và được tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Có thể nói, công việc sáng tác của Bành Châu làm rõ ràng hơn những vấn đề lý luận và những vấn đề lý luận ấy cộng với kinh nghiệm sáng tác lại góp phần đắc lực trong quá trình truyền đạt kiến thức của ông cho lớp đồng nghiệp trẻ. Và ai đã từng nghe Bành Châu giảng bài, hẳn là sẽ không quên được hình ảnh một người thầy giản dị, cởi mở, nhiệt tình, với cách nói năng dí dỏm, cuốn hút mọi người.
Với tư cách là một nhà báo, Bành Châu cũng tỏ ra sắc sảo, có duyên ngay cả khi bàn đến những vấn đề tế nhị, phức tạp của ngành hoặc bị coi là khô khan như lịch sử điện ảnh trong và ngoài nước. Theo sự điều động của cấp trên, từ cuối những năm tám mươi, ông trở thành Tổng biên tập báo Điện ảnh Việt Nam (nay là Điện ảnh Kịch trường Việt Nam). Ở cương vị này, ông đã góp phần cùng tập thể xây dựng tờ báo lúc bắt đầu gần như từ con số không, dần dần thu hút được nhiều bạn đọc, với số lượng xuất bản năm sau cao hơn năm trước. Ông cũng là dịch giả của khá nhiều công trình, sách báo và kịch bản phim của nước ngoài, trong đó có một phần của cuốn Lịch sử Điện ảnh Thế giới của G.Sa-đun (Pháp).
Hơn bốn mươi năm hoạt động trong ngành điện ảnh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ nghệ thuật học, nhà biên kịch, nhà giáo và nhà báo Bành Châu đã có những cống hiến nổi bật và phong phú về nhiều mặt. Trong lĩnh vực phim tài liệu, ông vẫn luôn luôn được nhìn nhận như một trong những đại diện tiêu biểu, bắt đầu từ sau kháng chiến chống Pháp cho đến cuối những năm bảy mươi.
Nhận sổ hưu từ đầu năm 1999, Bành Châu cũng không hề rảnh rỗi chút nào. Ông vẫn có chân trong Hội đồng duyệt kịch bản phim quốc gia cho đến hết nhiệm kỳ, tiếp tục giảng dạy cho mọi trình độ của hệ thống đào tạo điện ảnh, hướng dẫn luận án cho nhiều nghiên cứu sinh… Căn phòng nhỏ bé ở khu tập thể của nhà biên kịch cao tuổi vẫn đầy ắp sách vở, giấy tờ, máy móc. Ông mê máy vi tính vì khả năng cập nhật kiến thức kịp thời của nó, và cũng thi thoảng truy cập mạng Internet xem có gì mới lạ hay không để tham khảo. Với Bành Châu, hình như tuổi tác và sức khỏe kém không làm suy giảm nỗi đam mê tìm tòi, sáng tạo mà ông đã duy trì từ thuở thiếu thời. Đó cũng chính là niềm vui, là lẽ sống của người nghệ sĩ.
Nguyễn Hậu
Facebook Comments