Nhà báo Vũ Quang: Xin trân trọng giới thiệu bài viết thứ hai của nhà biên kịch Nguyễn Hậu về phim tài liệu với nhan đề: ” Phim tài liệu Điện ảnh và phim tài liệu Truyền hình”.
Nhà biên kịch Nguyễn Hậu ( Bên phải ảnh) và tiến sĩ Đinh Thúy Hằng
Chuyện kể rằng, ở một cơ sở đào tạo báo chí, khi giảng viên hỏi sinh viên chuyên ngành truyền hình: “Các bạn hiểu như thế nào về phim tài liệu?” thì… than ôi, chẳng có cánh tay nào dám giơ lên, tình nguyện trả lời. Đến lúc bị chỉ định, thì có người ấp a ấp úng một hồi, rằng đây là “tác phẩm báo chí”, “chuyển tải thông tin”, rồi “người tốt việc tốt”, “giáo dục tư tưởng”, v.v. Người lại nói đến phim tài liệu nhựa, phim tài liệu truyền hình, phim tài liệu chân dung… Khi bị vặn lại, thế nào là phim tài liệu nhựa và phim tài liệu truyền hình, thì tất cả đều im lặng. Mà đây là chuyện xảy ra với các sinh viên năm thứ ba.
Thật ra, mọi việc vô cùng đơn giản. Từ lâu, người ta đã phân chia phim tài liệu làm hai mảng rất khác nhau, căn cứ vào cách làm, mục đích của nó, cũng như phương thức phát hành và… cả cơ quan chủ quản. Từ đó, xuất hiện thuật ngữ “phim tài liệu điện ảnh” và “phim tài liệu truyền hình”, cũng giống như người ta thường nói tới “phim truyện điện ảnh” và “phim truyện truyền hình” vậy. Nếu các sinh viên không phân biệt được điều này thì chỉ có nghĩa là họ thiếu đi sự quan tâm cần thiết đối với một môn học cũng như sự tồn tại của phim tài liệu mà thôi.
Phim tài liệu điện ảnh là thuật ngữ được dùng để chỉ nhóm thể loại do điện ảnh sản xuất và phát hành từ hơn một thế kỉ nay, qua hệ thống các rạp chiếu. Đây cũng là loại phim thực hiện trên chất liệu phim nhựa (chủ yếu được tạo nên từ hợp chất triaxêtát xenlulô, clorua bạc, gelatin, v.v.). Loại phim này đòi hỏi một quy trình sản xuất phức tạp, công phu và tốn kém. Phim sống (nghĩa là chưa được dùng để ghi hình) phải được bảo quản rất cẩn thận. Quay phim xong lại phải qua một quá trình in tráng với nhiều công đoạn khác nhau rồi mới có thể dựng thành tác phẩm. Giá nguyên liệu cao nên dẫn đến giá thành chung của bộ phim cũng rất cao. Tuy nhiên, lúc đó truyền hình còn chưa ra đời hoặc mới chỉ chiếm vị trí rất khiêm nhường nên trên thế giới cũng như ở Việt Nam, gần như quốc gia nào cũng có các xưởng (hoặc hãng, tùy từng cách gọi), chuyên sản xuất phim tài liệu. Thậm chí ở một số nước chưa có điện ảnh phim truyện, người ta cũng vẫn có thể cho ra đời các loại phim tài liệu như thường. Riêng tại Việt Nam, từ mấy chục năm nay, chúng ta đã có Xưởng phim Thời sự – Tài liệu (đơn vị anh hùng, qua nhiều lần đổi tên, nay là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hãng phim Tài liệu và Khoa học trung ương). Ngoài ra còn có Điện ảnh quân đội và sau đó một chút, là Điện ảnh công an với nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất phim tài liệu.
Phim tài liệu truyền hình là nhóm thể loại được Truyền hình tổ chức sản xuất với mục đích phát sóng. Nhờ có sự tiến bộ của khoa học và kĩ thuật, thay vì sử dụng loại phim đặc biệt được gọi là phim trực hình (hoặc phim đảo dương), thì từ những năm tám mươi của thế kỉ trước, người ta đã dùng băng từ vidéo thuận tiện hơn, giá rẻ hơn và bây giờ là kĩ thuật số. Phương thức làm phim này quả thật đã tạo ra được sự thay đổi ngoạn mục trong quy trình sản xuất, cho ra đời ngày càng nhiều bộ phim với tốc độ rất nhanh và giá thành hạ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến phim nhựa ngày càng thu hẹp phạm vi ảnh hưởng, mà việc hãng phim Kodak lừng danh của một thời buộc phải ngừng sản xuất là minh chứng hùng hồn nhất. Cũng từ đó, điện ảnh quay ra “bắt chước” truyền hình, dùng băng từ và kĩ thuật số để làm phim.
Tuy nhiên, cho dù phim tài liệu điện ảnh là tiền thân của phim tài liệu truyền hình, thì cũng vẫn còn đó, những điểm tương đồng và khác biệt rất rõ ràng của chúng.
Thứ nhất, nói đến những điểm tương đồng, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, phim tài liệu điện ảnh và phim tài liệu truyền hình cùng có chung đặc điểm là xuất phát từ những hình ảnh người thực, việc thực đã hoặc đang tồn tại trong cuộc sống, với những chức năng và nhiệm vụ chính trị giống nhau. Điều này cũng có nghĩa là nếu không có người thật, việc thật, thì không có phim tài liệu điện ảnh mà cũng chẳng có phim tài liệu truyền hình! Thêm vào đó, hai dòng phim này đều bắt nguồn từ nhóm thể loại ra đời sớm nhất của điện ảnh và cùng chung hệ thống các phương tiện biểu hiện như hình ảnh, âm thanh, nghệ thuật dựng phim (montage) và các thủ pháp khác nhau. Và tiếp đó, là phim tài liệu, dù điện ảnh hay truyền hình cũng đều có thể cùng một lúc tác động tới nhiều người và mang giá trị tư liệu lịch sử.
Thứ hai, về những khác biệt. Nếu như phim tài liệu điện ảnh (trước đây) thường được thực hiện trên phim nhựa và phổ biến qua hệ thống các rạp chiếu, thì phim tài liệu truyền hình lại được làm bằng băng từ (vidéo) hoặc kĩ thuật số và phát sóng. Tuy nhiên, phim tài liệu điện ảnh có thể được nghiền ngẫm sâu hơn, với những đề tài và vấn đề rộng hơn, kể cả một số đề tài nhạy cảm, có khi còn chưa được kết luận rõ ràng hoặc dễ gây ra tranh cãi. Còn tính thời sự và báo chí lại được phim tài liệu truyền hình chú ý nhiều hơn. Đó là chưa kể truyền hình, do đặc trưng của nó là có thể hiện diện ở khắp mọi nơi, ngay lập tức, và có thể tác động tới rất nhiều người trong cùng một thời điểm, nên phải rất thận trọng với những gì có thể bị coi là “lập lờ nước đôi”, kích động tình dục hoặc hành vi bạo lực v.v. Do đó, thật khó mà có thể tin rằng những bộ phim như Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai (Trần Văn Thủy) hay Trở lại Ngư Thủy của Lê Mạnh Thích lại dễ dàng được “nhà đài” sản xuất và phát sóng. Bằng chứng là sau khi phim đã được phát hành rộng rãi, vẫn có người chất vấn đạo diễn Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai, là tại sao lại làm phim như thế? Còn Đào Quang Thép(*) đã được coi là rất dũng cảm khi ông dám cho phát sóng Trở lại Ngư Thủy trên Truyền hình Hà Nội, giữa lúc có người đòi cấm phát hành rộng rãi bộ phim này vì nó “vi phạm quan điểm” và “xuyên tạc sự thật” ở Ngư Thủy, Quảng Bình! Ngay cả một bộ phim do Truyền hình Việt Nam sản xuất, là Người đi trước thời gian (do Vũ Văn Quang đạo diễn) không có gì “phạm húy” nhưng vẫn bị ách lại Phòng nội dung của “nhà đài”. Và phim chỉ được phát sóng sau khi đã được đích thân Tổng giám đốc Truyền hình Việt Nam thẩm định lại, với yêu cầu bỏ bớt một câu (ngắn) trong lời bình và thêm phụ đề vào cảnh bà quả phụ Nguyễn Viết Xuân phát biểu.
Bài báo ” Chuyện chưa kể khi làm phim tài liệu về ông Kim Ngọc” đăng trên tạp chí Nghề báo của đạo diễn Vũ Quang
Đến đây, lại phải nói sang một vấn đề khác, là phương thức phổ biến và phạm vi ảnh hưởng của phim tài liệu. Thực tế là trong một thời gian rất dài, phim tài liệu thường được đem chiếu ở các rạp (cùng lắm chứa được mấy trăm người) hoặc các bãi (có thể lên tới vài ngàn người) nhưng rõ ràng là vẫn chẳng thấm vào đâu so với khán giả truyền hình, mặc dù điện ảnh là nghệ thuật dành cho số đông công chúng. Đã thế, phim thời sự – tài liệu lại thường được chiếu kèm, trước khi bắt đầu vào phim truyện (được coi là phim chính) vì thế tác động xã hội của nó cũng không lớn lắm. Nhưng chỉ cần một lần phát sóng thôi, ngay lập tức, phim tài liệu truyền hình có thể xộc ngay vào phòng ngủ của hàng triệu gia đình ở khắp mọi miền đất nước. Sự cộng hưởng, thậm chí là bùng nổ về cảm xúc của khán giả là đương nhiên. Phải vậy chăng mà sau khi Trở lại Ngư Thủy được phát sóng, rất nhiều người ở các nơi đã biên thư, gọi điện về đài và Hãng phim Tài liệu – Khoa học trung ương; quyên góp, giúp đỡ các “chị em C gái” để họ có thể thực hiện ước mơ từ mấy chục năm, là được ra Hà Nội, vào Lăng viếng Bác, thăm viện bảo tàng Quân đội nhân dân Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam)… Để rồi sau đó ít lâu, điện lưới quốc gia được kéo về Ngư Thủy; xã đã có đường… và mỗi chị em được tặng một chiếc máy thu hình màu.
Tất cả những cái đó, người ta gọi là hiệu ứng dây chuyền. Thay đổi nhận thức, hành vi… cũng là từ đó. Nhưng không phải phim tài liệu nào, dù là điện ảnh hay truyền hình, cũng có được sức mạnh ghê gớm như Trở lại Ngư Thủy của cố đạo diễn, Nghệ sĩ nhân dân Lê Mạnh Thích.
Facebook Comments