Nhà báo Trần Đăng Mậu: Quảng trị là phim trường sống động của phim tài liệu

 Nhà báo Vũ Quang : Xin chúc mừng Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Quảng Trị vừa xuất bản ấn phẩm Nhà báo & Quê hương xuân Đinh Dậu – 2017, với nội dung phong phú, hấp dẫn, thiết thực đối với các nhà báo Quảng Trị và cả nước!

Với cương vị là Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo tỉnh Quảng Trị, người chịu trách nhiệm xuất bản, đề nghị nhà báo Trần Đăng Mậu cho biết đặc san Nhà báo & Quê hương đã  được đổi mới như thế nào?

Chân dung nhà báo Trần Đăng Mậu

Chân dung nhà báo Trần Đăng Mậu. Ảnh : Bùi Xuân An

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Trước hết xin cảm ơn nhà báo Vũ Quang, một  độc giả rất chung thủy, luôn dành tình cảm và mối quan tâm thường xuyên đến mỗi số đặc san Nhà báo & Quê hương trong suốt những năm qua.

Để đặc san là diễn đàn tin cậy, là nơi tập hợp những người làm báo chuyên và không chuyên hội ngộ dưới mái nhà chung của Hội Nhà báo, chúng tôi thấy rằng mỗi một sự kiện quan trọng của quê hương, đất nước luôn được những người làm báo dõi theo, hướng đến, là nguồn cảm hứng, chất liệu phong phú, sôi động để cho ra đời những tác phẩm báo chí chất lượng. Với quyết tâm không ngừng đổi mới và sáng tạo, ngoài những chuyên mục quen thuộc với bạn đọc, bạn viết; từ đầu năm 2016 đến nay, mỗi số đặc san Nhà báo & Quê hương “mở hàng” Trang phóng sự ảnh báo chí, xây dựng mục Gương mặt nhà báo, duy trì Góc chuyện nghề để mở rộng biên độ tác nghiệp của các nhà báo, đóng góp cho ấn phẩm ngày thêm phong phú, sinh động, sát với hơi thở của cuộc sống và báo chí đương đại. Hy vọng với nội dung phong phú, trình bày trang nhã, đặc san Nhà báo & Quê hương sẽ mãi là người bạn tin cậy của bạn đọc, bạn viết trong và ngoài tỉnh.

Đề nghị ông cho biết, công tác hội sẽ đổi mới như thế nào để thiết thực bảo vệ quyền lợi chính đáng của các hội viên Hội Nhà báo Quảng Trị?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Hoạt động công tác hội luôn đồng hành với sự nghiệp đổi mới của báo chí. Tôi cho rằng để bảo vệ một cách hiệu quả quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên thì công tác hội cần quan tâm hơn nữa tới công tác xây dựng đội ngũ người làm báo vững vàng về tư tưởng, chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Hội phải thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động, sân chơi thiết thực, phù hợp, mang tính đặc thù của hội; chú trọng đến việc nâng cao chất lượng tác phẩm báo chí, xây dựng lộ trình, tập hợp lực lượng, định hướng đề tài, chỉ đạo thực hiện và có cơ chế động viên, sát cánh với các hội viên để có các tác phẩm báo chí chất lượng, từng bước nâng cao tầm vóc, uy tín của Giải báo chí tỉnh Quảng Trị; từ đó tạo nguồn tác phẩm đủ sức tham dự và giành các giải thưởng cao tại Giải báo chí quốc gia và các giải báo chí chuyên ngành của Trung ương.

Trở lại với câu chuyện nghề, xin ông lý giải đôi chút nguyên do vì sao lại chuyển từ nghề làm truyền hình (vốn là thế mạnh của ông, nơi ông gắn bó trên 20 năm qua với khá nhiều thành công và trong một môi trường làm việc rất sôi động) để chuyển sang làm công tác quản lý hội ?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Tôi là một nhà báo, một cán bộ làm công tác báo chí nên khi có sự điều động công tác của cấp trên, tôi phải nghiêm túc tuân thủ. Và tôi nghĩ đã là nhà báo thì ở môi trường nào cũng phải thích ứng được, vấn đề là phải có kế hoạch hợp lý để vừa hoàn thành nhiệm vụ quản lý công tác hội, vừa làm tham gia tác nghiệp để khỏi “nhớ nghề”, để có các tác phẩm truyền hình theo khả năng đóng góp của mình.

Bộ phim tài liệu nào có ảnh hưởng đến cách làm phim của đạo diễn Trần Đăng Mậu?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Nhiều lắm, cái hay, cái đẹp, cái chân, thiện, mỹ… có nhiều trong các phim tài liệu mà tôi từng xem, tôi “cóp nhặt” lại để tham khảo, học hỏi trong quá trình làm nghề của mình. Vậy những trong số đó,  phim tài liệu: “Sắc màu ký ức” gây cho tôi nhiều xúc động hơn cả. Phim lần theo những địa chỉ từ mỗi bức chân dung trong cuốn “Ký họa thời chiến” của họa sỹ Phạm Ngọc Liệu. Suốt gần 3 tháng ròng, tôi đã đi khắp các làng quê, góc phố, vào tận thành phố Hồ Chí Minh tìm những chân dung mà ngày ấy họa sỹ đã ký thác qua từng nét vẽ của mình. Và thế là sau gần 40 năm, có những cuộc hội ngộ bất ngờ và xúc động giữa tác giả và nhân vật trong tranh, đó là những dân quân, lão ngư, những o du kích mà tác giả chưa có dịp gặp lại.

Với lợi thế chất giọng ấm, với nguồn cảm hứng sáng tạo và bút lực dồi dào của họa sỹ Phạm Ngọc Liệu, nên khi xây dựng kịch bản, tôi nghĩ đây là điều kiện thuận lợi để triển khai phim theo trình tự đan xen giữa lời tự sự của họa sỹ với lời bình của tác giả. Ở đây, chỉ có lời tự sự của họa sỹ hay những cuộc hội thoại giữa họa sỹ với nhân vật mới bộc lộ hết nội tâm, cảm xúc của mình trước cảnh vật, con người sau gần 4 thập niên gặp lại; còn lời bình là để dẫn dắt câu chuyện, mạch phim, thể hiện tính khách quan khi bình phẩm về những tác phẩm nghệ thuật của họa sỹ.

Phim thể hiện cuộc tìm về là dịp để họa sỹ cúi đầu tri ân trước Hiền Lương – Bến Hải, trước “lũy thép” Vĩnh Linh, trước “đất thiêng” Quảng Trị, trả ơn nghĩa sâu dày với đồng bào, đồng đội nơi chiến trường một thời máu lửa đang hồi sinh từng ngày.

Trả lời phỏng vấn nhà báo Diễm Quỳnh

Trả lời phỏng vấn nhà báo Diễm Quỳnh nhân dịp vtv3 tròn 20 năm tuổi

Phim tài liệu “Cây bồ đề ở nghĩa trang Trường Sơn” đã được thực hiện như thế nào thưa ông?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Năm 2002, nhân hướng đến kỷ niệm 55 năm Ngày Thương binh – Liệt sỹ; tôi đã thực hiện phim tài liệu “Cây bồ đề ở nghĩa trang Trường Sơn”. Thông qua cây bồ đề rợp bóng, che mát đài Tổ quốc ghi công, được xem là điềm lành ở chốn linh thiêng này; là phúc ấm muôn đời, che mát hồn các anh, các chị đã nằm lại nơi đây; cây bồ đề như là linh vật, làm ấm thêm tâm khảm của thân nhân gia đình liệt sỹ khi đến viếng thăm.

Phim được phát trên sóng VTV1 vào ngày 27 tháng 7 năm 2002. Trong phim có 2 chi tiết đáng chú ý, đó là hình ảnh thắp sáng 1.000 cây nến trên khu mộ của thành phố Hà Nội; mời các sư thầy lên Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn làm lễ cầu siêu, lời kinh nguyện cầu ngân lên dưới tán cây bồ đề đã làm cho trường đoạn phim thêm xúc động và thu hút lòng người.

Việc thắp một nghìn cây nến ở nghĩa trang Trường Sơn đã tạo ấn tượng mạnh mẽ trong phim của ông. Vậy sự thật trong phim tài liệu sẽ được hiểu như thế nào?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Thời đó (2002), khi phim được phát sóng, bản thân tôi cũng đã nhận được những lời phàn nàn: Vì sao để đạo diễn mời sư thầy lên nghĩa trang tụng kinh…, vì sao lại thắp nến trên phần mộ liệt sỹ…? Qua độ lùi về thời gian, bây giờ có thể thấy, 2 trường đoạn trong phim ngày ấy, nay đã trở thành một phần chính lễ ở “đất thiêng Quảng Trị” vào dịp ngày 27/7 hàng năm.

Như vậy là từ sự thật trong phim, đã có sức lan tỏa trong đời sống xã hội. Nhân đây tôi xin lược trích lời của nhà báo Diễm Quỳnh: “…Những hình ảnh trong bộ phim tài liệu về nghĩa trang Trường Sơn của đạo diễn Trần Đăng Mậu đã gợi ý cho chúng tôi dàn dựng màn dâng hương và thắp nến trong “Huyền thoại Trường Sơn” (27/7/2004) và đó trở thành điểm nhấn quan trọng của kịch bản. Tôi vẫn chưa có dịp nào để cảm ơn riêng đạo diễn Trần Đăng Mậu về điều đó, vì quả thực anh còn giúp chúng tôi nhiều việc khác trong “Huyền thoại Trường Sơn”.

Hơn 10.000 ngọn nến “Huyền thoại Trường Sơn” làm cho không gian u tịch của nghĩa trang mênh mông trở nên gần gũi, ấm áp và thân thiết, như chiếc cầu nối sẻ chia những tình cảm thiêng liêng giữa những người đang sống và những người đã khuất. Đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm nhận được sự ấm áp lan truyền qua những ngọn nến Trường Sơn ngày ấy.

Trò chuyện với nghệ sĩ Chu Chí Thành về bức ảnh Hai người lính, Ảnh: Đình Giáo

Trò chuyện với nghệ sĩ Chu Chí Thành về bức ảnh Hai người lính, Ảnh: Đình Giáo

Kỷ niệm nào với các đồng nghiệp ở VTV khiến ông không thể quên?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Kỷ niệm với các đồng nghiệp ở VTV thì rất nhiều, nhưng để lại dấu ấn trong đời làm báo của tôi là được tham gia tổ chức sản xuất các chương trình giao lưu nghệ thuật ở Quảng Trị do VTV tổ chức, như: Huyền thoại Trường Sơn, Người đương thời, Một thời hoa lửa, Khúc tráng ca về một dòng sông, Quảng Trị – Sáng mãi niềm tin chiến thắng…, là được VTV điều động làm đạo diễn hình bộ môn Pencak Silat trong khuôn khổ SEA Games 22 tổ chức tại Hà Nội năm 2003; được VTV điều động tham gia làm giám khảo chương trình phóng sự trong Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 32, tại thành phố Vinh – 2012. Ngoài ra thỉnh thoảng tôi còn hợp tác với đồng nghiệp ở Trung tâm Phim tài liệu và Phóng sự để thực hiện tác phẩm, với chức danh kịch bản hoặc có khi đạo diễn.

Ông nghĩ sao về ý kiến: Những phim tài liệu về Quảng Trị thành công nhờ vào mảnh đất lịch sử hơn là tài năng của tác giả?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Trong những năm tháng chiến tranh, mảnh đất Quảng Trị trải qua nhiều chiến dịch lớn của quân và dân ta, có nhiều địa danh đã đi vào lịch sử, nơi ấy mỗi một tên đất, tên làng, tên núi, tên sông đều gắn với những chiến công bất tử. Vì thế cũng không ngoa khi nói rằng, Quảng Trị là phim trường sống động cho những ai muốn khám phá, thử thách mình qua mỗi thước phim tài liệu, là đất thiêng cho những đề tài về chiến tranh cách mạng, cho đến ngày nay vẫn còn đó những nhân vât, câu chuyện bi hùng, in đậm kỳ tích trước mỗi chiến công. Vấn đề là tài năng khai thác, phong cách thể hiện của nhà báo trước hiện thực phong phú ấy.

       Điều gì mà ông cảm thấy thiếu hụt trong tác nghiệp?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Trong tác nghiệp tôi vẫn mong muốn có một quay phim giỏi. Ở Quảng Trị phần lớn quay phim chưa được đào tạo bài bản qua trường lớp, chưa có ai tốt nghiệp Đại học Sân khấu Điện ảnh. Truyền hình thì hình ảnh là “chính văn”, nếu không có hình ảnh “biết nói” thì đó là điều thiếu hụt trong tác nghiệp.

Kỹ năng nào mà các hội viên của Hội Nhà báo Quảng Trị còn thiếu trong thời kỳ công nghệ số?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Đó là tính chuyên nghiệp, biết sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật hiện đại, là tinh thần tự học để tiến tới làm báo theo hướng đa phương tiện, là kỹ năng tư duy hình ảnh để có sản phẩm báo hình vừa “đúng, trúng, hay”.

Cuốn sách mà ông vừa đọc là cuốn sách gì?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Cuốn sách: “Từ nguồn Thạch Hãn đến bờ Hồ Gươm” của nhà báo Phan Quang là một cuốn sách hay. Như ông tâm sự, đây chỉ là những dòng ghi chép, ghi nhanh bên bờ suối, trên đỉnh núi, giữa mặt trận, trong làng quê… Đọc xong, tôi thấu hiểu về một chàng trai bên dòng Thạch Hãn – Quảng Trị thuở niên thiếu đã giã từ làng quê lên đường đi kháng chiến; thấu hiểu về một nhà báo tài năng, bút lực dồi dào, suốt cuộc đời chuyên tâm: “Đọc – Đi – Nghĩ – Viết” để khi sắp bước vào tuổi 90 mới trình làng “những mẫu sống nguyên thô” này.

Xin ông trả lời câu hỏi mà nhà báo Vũ Quang quên chưa hỏi?

Nhà báo Trần Đăng Mậu: Câu hỏi phỏng vấn của nhà báo Vũ Quang mới đề cập đến công tác hội và mảng truyền hình; còn quên mảng báo in, nhất là tác phẩm đầu tay?

– Trả lời: Năm 1990, tôi đã viết bài “Vé số tự chọn làm trỗi dậy tệ mê tín dị đoan ở Quảng Trị” đăng trên báo Nhân Dân, ngay sau khi báo đăng, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định bỏ loại hình vé số tự chọn này, nay bài báo đó tôi vẫn còn giữ để làm kỷ niệm.

 

Vũ Quang

Facebook Comments