Đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân Lê Thi – Hoài niệm về những ngày lửa đạn

QĐNDBộ phim tài liệu “Hà Nội – Bản hùng ca” của Điện ảnh Quân đội phản ánh cuộc chiến đấu 12 ngày đêm năm 1972 bảo vệ Thủ đô đã nhận được những giải thưởng: Giải nhất tại Liên hoan phim Quân đội các nước XHCN năm 1975 tại Vetprem (Hung-ga-ri); Giải Bông sen vàng Liên hoan phim Việt Nam năm 1975 cùng bằng khen đặc biệt tuyên dương các nhà quay phim dũng cảm. Một trong những nhà quay phim đó là NSND Lê Thi.

Đại tá, NSND Lê Thi mình hạc vai gầy đang sải bước trên phố Lý Nam Đế đến Điện ảnh Quân đội.

 
Lê Thi đang tác nghiệp ở trận địa pháo Đông Anh, Hà Nội.

Vị đạo diễn 69 tuổi này mới nghỉ hưu vài năm nay. Về nhà vẫn tiếp tục làm phim, rỗi một chút ông lại đến cơ quan cũ của mình. Bởi, ông đã công tác ở Điện ảnh Quân đội 44 năm 8 tháng, từ một Binh nhất đến Đại tá, từ anh quay phim đến đạo diễn với biết bao kỷ niệm vui buồn. Và cũng bởi như ông nói, ông muốn về ngôi nhà số 17 Lý Nam Đế ấy, nơi có tới 30 đồng đội của ông đã hy sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ và giải phóng đất nước.

Tôi hỏi ông về chuyện làm phim “Hà Nội – Bản hùng ca”, ông kể, năm 1972 chiến dịch Quảng Trị đã “hút” rất nhiều đạo diễn, quay phim Quân đội vào trong đó, một số lại phải đi sơ tán để dự phòng lực lượng, số còn lại trực chiến ở nhà chỉ đủ rải ra một số trận địa khu vực Hà Nội. Do vậy, trong phim tài liệu “Hà Nội – Bản hùng ca” của các ông không có cảnh quay đánh B-52 ở Hải Phòng.

Trước ngày xảy ra chiến sự 18-12-1972, Tổng cục Chính trị chỉ đạo cho Điện ảnh Quân đội rải quân ở các trận địa pháo cao xạ và tên lửa khu vực Hà Nội. Cánh quay phim Quân đội được chia thành 4 tổ, do Ngô Đặng Tuất phụ trách, thay nhau trực chiến ở các trận địa suốt ngày đêm. Họ đến cùng sinh hoạt, ăn nghỉ với bộ đội, báo động là chạy ra vị trí đã chọn sẵn chờ tên lửa ta bắn hạ B-52. Những người lính quay phim chiến tranh đối đầu với nguy hiểm không kém gì cán bộ, chiến sĩ ở trận địa. Hồi đó, máy bay Mỹ thường dùng tên lửa Sơ-rai (Shrike) để bắn phá trận địa tên lửa của ta. Với sự mưu trí, dũng cảm, các sĩ quan điều khiển tên lửa chọn thời điểm tắt đài ra-đa hợp lý để Sơ-rai rơi tự do ra ngoài trận địa. Thông thường, vị trí quay phim phải cách trận địa tên lửa khoảng 100 đến 200m mới quay được cảnh tên lửa ta phóng lên, nên nguy cơ “ăn” trọn trái Sơ-rai là có thật. Nguy hiểm thế nhưng với khí thế đánh B-52 của Thủ đô, không một nhà quay phim nào nghĩ đến cái chết. Đầu trần mong manh đứng giữa vị trí trống trải dưới trời đêm rét cắt da cắt thịt của tháng Chạp năm 1972 ấy, họ tự nhủ phải quay bằng được cảnh “rồng lửa” chúng ta bay lên và cảnh B-52 bùng cháy trên bầu trời Hà Nội.

 
Chiếc máy bay B-52 bị ta bắn rơi tại cánh đồng Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội. (Cảnh trong phim “Hà Nội – Bản hùng ca” của Điện ảnh Quân đội).

Cũng trong một đêm như thế, tại trận địa tên lửa Chèm của Tiểu đoàn tên lửa 77 do Tiểu đoàn trưởng Đinh Thế Văn chỉ huy, Lê Thi cùng Phạm Thọ đã quay được cảnh vô cùng hiếm hoi: Máy bay B-52 bùng cháy sát một vầng trăng! Kinh nghiệm của người quay phim cộng với may mắn đã tạo nên thước phim rất ấn tượng. Lê Thi kể: Chúng ta quay phim bằng máy quay Konvas, không có ống kính tê-lê mà chỉ có ống kính tiêu cự 135 là xa nhất. Ban ngày, các nhà quay phim chọn sẵn vị trí đứng quay, góc độ, xác định cự ly, lựa chọn khẩu độ. Đêm đến khi có lệnh báo động, họ vác máy quay Konvas 35mm nặng trình trịch ra vị trí. Ở xa trận địa, không thể nghe khẩu lệnh của người chỉ huy, trời lại tối đen như mực, vậy làm sao quay được cảnh tên lửa ta bắn lên? Ấy là do sự từng trải và kinh nghiệm. Tai dỏng lên nghe ngóng, khi nghe tiếng “cách”, nghĩa là lúc quả tên lửa đã nhả chốt, nhà quay phim đếm đến ba rồi bấm máy, cũng là lúc quả tên lửa lao vút lên không trung. Chân đứng phải vững, rồi bình tĩnh lia nhanh máy theo quả tên lửa cho đến khi trúng mục tiêu. Nếu sai một chút là xôi hỏng bỏng không.

NSND Lê Thi bảo, “Hà Nội – Bản hùng ca” hoành tráng và cũng nhiều tư liệu quý thật, nhưng bây giờ nhìn lại về kỹ thuật thì còn non lắm. Các ông hồi đó chưa quen quay cảnh tên lửa bắn trong đêm, không biết lượng sáng quả tên lửa nên không ước lượng được khẩu độ mở của ống kính là bao nhiêu, nên tất cả các cảnh quả tên lửa bắn lên trong bộ phim đều “quá sáng” (quay phim xong về nộp cho bộ phận in tráng rồi lao đi quay tiếp, không có thời gian xem để rút kinh nghiệm). Thêm nữa, do ống kính tê-lê dễ bắt trượt quả đạn tên lửa nên ít dùng, buộc phải sử dụng ống kính 50 hoặc 75 nên không thu gần hình ảnh được.

Cũng do hạn chế về kỹ thuật mà các ông không quay được đầy đủ những cảnh rất “đắt”, rất sinh động và là nguồn tư liệu quý cho mai sau. Sau khi ở trận địa Chèm về thì đêm đó ông được lệnh tới khu phố Khâm Thiên, nơi B-52 mới rải thảm. Ông nhớ mãi đêm hôm đó, toàn một màu tối tang tóc. Chỉ có nến, đèn bão, ánh đèn pin… ánh sáng quá yếu không đủ để quay phim. Trong cảnh hoang tàn đổ nát ghê rợn, không hề có tiếng khóc, chỉ có tiếng í ới gọi nhau của tự vệ đến cứu người, rồi từng chiếc xe lặng lẽ chở quan tài đến vứt thình thịch xuống đất… Cái cảnh bi thương ấy, cái âm thanh rợn người không có nhà quay phim nào quay được, mặc dù họ chứng kiến đúng lúc.

 
Các trắc thủ trong đài quan sát của Sư đoàn 361 Anh hùng trong 12 ngày đêm tháng 12-1972. (Cảnh trong phim “Hà Nội – Bản hùng ca” của Điện ảnh Quân đội).  Ảnh do nhân vật cung cấp.

Bộ phim được quay ở ba trận địa tên lửa, pháo cao xạ và một số cảnh quay phụ ở các đơn vị, địa phương phục vụ chiến đấu. Ông nhớ lúc đến quay Nhà máy A31 và những phân xưởng lắp đạn tên lửa. Làm việc quần quật suốt ngày đêm, lại phải làm nhanh, làm hết công suất để có tên lửa phục vụ các trận địa, nhiều cán bộ, chiến sĩ khi nạp khí ô-gơ phải mặc bộ phòng độc rất kín không kịp tháo ra nên bị ngất do thiếu ô-xi.

Tôi hỏi, vì sao trong phim không có những cảnh quay về sự hy sinh, mất mát của bộ đội và nhân dân ta trong đợt rải thảm B-52 khốc liệt ấy, đạo diễn Lê Thi trả lời rằng cũng có, nhưng chỉ là những cảnh quay bộ đội, dân quân tự vệ khiêng cáng chung chung. Là người đi nhiều chiến trường, ông từng chứng kiến những hy sinh của đồng đội. Những chiếc võng trong rừng chỉ còn bộ xương khô, những trận địa pháo bị bom Mỹ hủy diệt, pháo thủ gẫy chân gẫy tay, mảnh bom xuyên qua người rất nhiều, hoặc có liệt sĩ thịt dính chặt vào khẩu pháo… Tất cả những cảnh đó đã không quay, và nếu quay về cũng bị lọc bỏ đi. Bộ phim “Hà Nội – Bản hùng ca” nằm trong bối cảnh chung như vậy. Đó là bộ phim phản ánh rộng, không có điểm nhấn. Sự khốc liệt của chiến tranh cũng chỉ là chung chung, không đi vào số phận con người trong chiến tranh. Sự đau khổ của những người mất cha, mất mẹ, mất vợ mất chồng, mất con, rồi họ sẽ gượng dậy để sống như thế nào, vượt lên số phận ra sao… chưa được đề cập. Chiến thắng chỉ là một phần của chiến tranh và các ông mới phản ánh được một góc của 12 ngày đêm lịch sử đấy. Đó là điều hiện nay ông và những người làm phim còn day dứt. Ông như thấy mình còn món nợ với lịch sử.

Nhưng dù sao, nhận thức về văn học nghệ thuật một thời cũng đã qua, và lịch sử nếu chưa được nói hết lúc nó xảy ra thì cũng được hậu thế đề cập tiếp với phản ánh trung thực, khách quan hơn. Điều đọng lại trong NSND Lê Thi và những người làm phim cùng thế hệ là được sống và làm nghệ thuật trong những ngày vĩ đại của dân tộc, để đến hôm nay mỗi lần xem lại “Hà Nội – Bản hùng ca”, ông vẫn nhớ mãi đạo diễn Phan Quang Định; những nhà quay phim: Ngô Đặng Tuất, Hà Tài, Nguyễn Thọ, Trần Huy Châu, Vương Đức Cừ, Trần Gia Định, Phạm Hữu Doanh… những đồng đội của ông, người còn người mất đã làm nên bộ phim gây tiếng vang một thời.

KHÔI NGUYÊN

QĐND online

Facebook Comments