Bố cục, nghĩa là sự tổng hợp, sắp xếp và trình bày một cách cân đối, hài hòa các “bộ phận cấu thành” của các tác phẩm văn chương, nghệ thuật nói chung, trong đó, đối với phim tài liệu, trước hết và bao giờ cũng là phần hình ảnh. Điều này phải luôn luôn thường trực trong tư duy của cả người quay phim lẫn đạo diễn, chi phối từng động tác máy quay, cỡ cảnh và khuôn hình… và nó càng trở nên cụ thể, đặc biệt quan trọng khi tác giả đã ngồi bên bàn dựng với hàng đống tư liệu đã được ghi hình.
Sinh viên Nguyễn Hậu khi nhập trường VGIK ( Liên Xô)
Cũng như các chữ cái tạo nên từ, từ ghép lại thành câu và nhiều câu được tập hợp lại theo một trình tự nhất định sẽ trở thành một đoạn trong một văn bản bất kì nào đó, những hình ảnh hay chuỗi hình ảnh (séquence) rời rạc được máy quay ghi lại, sẽ tạo thành các đoạn và trường đoạn trong phim. Đây cũng là những nhân tố làm nên tác phẩm.
Đoạn (scène) là một phần của hành động, diễn ra tại một bối cảnh nội (trong nhà) hay ngoại (ở ngoài trời), hoặc nội kết hợp ngoại có sự dịch chuyển, thay đổi vị trí máy quay với những góc độ và động tác khác nhau, theo ý đồ sáng tạo của quay phim và đạo diễn. Điều này cũng có nghĩa là đoạn có thể mang một ý nghĩa trọn vẹn hoặc không.
Trường đoạn (épisode) gồm một hay nhiều đoạn liên kết với nhau bởi đề tài, vấn đề và tư tưởng chủ đề chung của bộ phim. Đây là một phần trọn vẹn, có ý nghĩa hoàn chỉnh và độc lập trong tác phẩm, có chức năng phát triển đề tài chung bởi một nội dung cụ thể; mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau cũng như quan hệ giữa nhân vật và sự kiện; và tùy theo vị trí, chức năng của nó mà mỗi trường đoạn có độ dài ngắn khác nhau. Tuy nhiên, so với phim truyện thì các cảnh quay, đoạn và trường đoạn trong phim tài liệu thường rất ngắn do đặc thù của thể loại, mặc dù số lượng các trường đoạn giữa chúng là tương đương. Cụ thể, một bộ phim truyện dài 90 phút, có thể có từ 6 đến 8 trường đoạn, thì với một bộ phim tài liệu 30 phút, ít nhất cũng có từ 4 đến 6 trường đoạn. Như vậy có thể thấy, ngoài hai trường đoạn mở đầu và kết thúc, các trường đoạn còn lại sẽ đóng vai trò thắt nút, phát triển và cao trào – cũng chính là phần nội dung chủ yếu và quan trọng nhất của bộ phim.
Nhưng tại sao các cảnh, đoạn và trường đoạn trong phim tài liệu lại thường rất ngắn? Vấn đề là ở chỗ, khác hẳn với phim truyện, phim tài liệu thường phải sử dụng lời bình. Một cảnh quay trong phim truyện có thể khai thác đến tận cùng diễn xuất của diễn viên nhằm thể hiện một nội dung nào đó, nhưng đối với phim tài liệu thì không. Bởi lẽ, do thời lượng chung của bộ phim rất ngắn, tác giả không thể và không nên chú trọng khai thác phần hình ảnh “không diễn xuất” mà nhờ lời bình thay thế. Ví dụ, với phim truyện, chúng ta có cảnh một ông già ngồi uống cà phê bên hè phố. Diễn viên sẽ diễn xuất như thế nào tùy ý, và cảnh quay có thể kéo dài tới vài phút, tùy theo yêu cầu nghệ thuật. Nhưng với phim tài liệu, cảnh này sẽ chỉ kéo dài cùng lắm là vài chục giây, với lời bình giả dụ như: “Sáng nào cũng vậy, trong lúc ngồi nhâm nhi tách cà phê bên hè phố, ông lại có dịp ngẫm nghĩ về công việc của mình”. Thế là quá đủ. Khán giả phim tài liệu không cần và cũng không có thời gian đâu để xem ông già ấy uống cà phê như thế nào vì lời bình đã nói hộ hết rồi.
Có liên quan mật thiết đến bố cục là những vấn đề về hình thức phim tài liệu. Ai cũng biết rằng, nội dung quyết định hình thức và ngược lại, hình thức phản ánh nội dung. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào điều này cũng đúng, vả chăng trong rất nhiều trường hợp cũng chẳng cần bóc tách chúng ra làm gì. Tuy vậy, nếu như một đạo diễn nào đó chọn được hình thức phù hợp với nội dung bộ phim tài liệu của anh ta, thì chắc chắn tác phẩm ấy đã thành công được một phần và ngược lại. Chính điều này góp phần làm nên giá trị nghệ thuật của bộ phim.
Hình thức đầu tiên, hay gặp nhất trong các thể và các loại phim tài liệu, là câu chuyện được kể bằng hình ảnh. Toàn bộ nội dung tác phẩm với các nhân vật, sự kiện, tư liệu… đều được trình bày dưới dạng các chuỗi hình ảnh liên tục, phù hợp với kết cấu theo trình tự thời gian; theo lôgíc diễn biến các sự việc và sự kiện hoặc theo luật nhân quả. Tác giả không hề xuất hiện, mà để cho câu chuyện nói lên tất cả và đi kèm với hình thức này người ta thường sử dụng lời bình được viết theo kiểu “vô nhân xưng”, không có “tôi” hoặc “chúng tôi”, cho dù lời lẽ ngôn từ có mượt mà, bay bổng (phim tài liệu nghệ thuật) hay hùng hồn, đanh thép (phim tài liệu chính luận). Có thể điểm lại một số phim làm dẫn chứng, như Hồ Chí Minh, chân dung một con người (Bùi Đình Hạc), Hà Nội trong mắt ai (Trần Văn Thủy), Chìm nổi sông Hương (Lê Mạnh Thích), Bảy mươi lăm năm Đảng Cộng sản Việt Nam (Bùi Ngọc Hà), Nụ cười thành cổ (Trần Minh Đại), Oan nghiệt (Lê Thanh Liên)… Chiến tranh Việt Nam – Những hình ảnh chưa từng được biết đến của Daniel Costele cũng sử dụng hình thức này.
Theo dòng hồi tưởng của nhân vật, hình thức thứ hai, là những câu chuyện được kể lại theo hồi ức của nhân vật trong phim, do đó trật tự thời gian bị phá vỡ; quá khứ và hiện tại có thể đan xen, hòa quyện với nhau, và chính những yếu tố này đem lại sự hấp dẫn nhất định cho tác phẩm. Tuy nhiên, hình thức này cũng đòi hỏi phải sử dụng các tư liệu, tài liệu kết hợp với những hình ảnh mới được quay. Do đó, nếu không cẩn thận sẽ dễ làm mất đi tính chân thực cần phải có. Những bộ phim như Người gieo hạt giống cách mạng (tập 2 trong loạt phim Bảy mươi năm vì nước vì dân của Bùi Ngọc Hà) và Dòng sông hoa lửa của Trần Minh Đại rõ ràng là đã được thể hiện qua chính hồi ức của nhân vật.
Nhà biên kịch Nguyễn Hậu trên giảng đường
Cuối cùng, phải kể đến hình thức dùng người kể chuyện hoặc dẫn chuyện. Tuy ít được sử dụng hơn so với hai hình thức trên, nhưng nó có thể đem lại những hiệu quả to lớn về cảm xúc và thẩm mĩ cho khán giả. Điều này trong một chừng mực nào đó, dường như gián tiếp cho thấy tài năng và bản lĩnh của tác giả là như thế nào. Người dẫn chuyện có thể chính là một nhân vật trong phim, mà cũng có thể là bản thân đạo diễn, hoặc người đóng cả hai vai trò này cùng một lúc. Chuyện từ góc công viên của Trần Văn Thủy và Trở lại Ngư Thủy của Lê Mạnh Thích là những bộ phim như thế. Ở phim trước, với tư cách như một nhân vật dẫn chuyện và cũng là đồng tác giả kiêm người thể hiện lời bình, Nguyễn Thước có một vai trò không ai có thể thay thế được. Trong bộ phim thứ hai, tuy không để lại được những dấu ấn sâu đậm lắm, nhưng Lò Minh vẫn cứ là người xâu chuỗi các nhân vật và sự kiện với nhau. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng hiện nay, rất nhiều kí sự truyền hình sử dụng người dẫn chuyện nhưng… đó không phải là phim tài liệu (!) và người dẫn chuyện ở đây thực chất chỉ đóng vai trò của một người dẫn chương trình. Nghĩa là, họ không thật sự tham gia câu chuyện mà chỉ là người ngoài cuộc, đứng ra giới thiệu câu chuyện đó.
Cũng như đối với các thể loại tác phẩm báo chí nói chung, một số tác giả lại đưa ra những khái niệm khác về bố cục phim tài liệu, như bố cục kiểu vòng tròn, bố cục hình kim cương, bố cục hình kim tự tháp… (rất gần với khái niệm về kết cấu). Dù sao, trong bất kì một bộ phim tài liệu nào cũng phải có đủ năm yếu tố, gồm mở đầu, thắt nút, phát triển, cao trào và mở nút. Nhưng việc sắp xếp, trình bày của cả kịch bản và phim lại không nhất thiết phải tuân theo trình tự này, mà nó phụ thuộc hoàn toàn vào ý đồ sáng tạo của tác giả. Không hiếm phim, phần mở nút lại được đưa lên đầu (lấy kết quả làm nguyên nhân) hoặc mở đầu được kết hợp luôn với phần thắt nút. Mặt khác, do đặc thù của phim tài liệu, nhất là đối với truyền hình, trong đó có quy định nghiêm nhặt về thời lượng (chỉ được kéo dài khoảng 25 đến 30 phút cho mỗi tập) nên mỗi tập cũng không bắt buộc phải hội đủ năm trường đoạn (tương ứng với năm nhân tố trong kết cấu) mà vẫn có thể ít hơn hay nhiều hơn. Nhưng trong phạm vi của từng trường đoạn lại phải có đủ năm nhân tố trong kết cấu, vì đây là nguyên tắc bất di bất dịch. Thực tế sáng tác đã chỉ ra rằng, một bộ phim tài liệu chỉ thực sự được coi là hay, khi mà bên cạnh các yếu tố khác nhau, như nội dung, đề tài, tư tưởng chủ đề… còn có hình thức thể hiện, kết cấu và bố cục chặt chẽ và hợp lí.
( Còn tiếp )
Nguyễn Hậu
Facebook Comments