Nhà báo Vũ Quang: Xin trân trọng giới thiệu tiếp bài viết thứ bảy trong loạt bài về phim tài liệu của nhà biên kịch Nguyễn Hậu với tiêu đề ” Các chất liệu trong phim tài liệu”.
Sinh viên Nguyễn Hậu và Phó Giáo sư Phụ trách bộ môn Biên kịch Điện ảnh N. A. Phôkinna ( Trường VGIK, 1981)
Ai trong chúng ta cũng đều biết rằng, muốn xây một ngôi nhà trước hết phải có nguyên vật liệu. Tùy theo mục đích sử dụng và khả năng tài chính mà người ta khai thác những vật liệu khác nhau. Ví dụ, anh muốn cơi nới thêm một căn phòng nhỏ trên gác thượng sẽ khác với việc chị định mở một nhà hàng. Ông muốn cất một ngôi nhà giả cổ ở quê sẽ cần đến những vật liệu khác hẳn bà dự tính xây một tòa biệt thự… Vậy, người ta cần phải có cái gì để xây dựng nên một bộ phim tài liệu, hay nói cách khác, chất liệu trong phim tài liệu gồm có những gì?
Xin thưa, đó chính là hiện thực phong phú và sinh động trong cuộc sống và xã hội, trong mối quan hệ biện chứng và phát triển không ngừng. Nhiệm vụ của người làm phim tài liệu là phải tìm kiếm những gì cần thiết nhất giữa cái biển rộng mênh mông ấy, cụ thể hóa nó bằng những hình ảnh sống động để xây dựng thành tác phẩm. Điều này hoàn toàn dựa theo sở trường, quan niệm, lập trường và cả cái gu thẩm mĩ cũng như tài năng của anh ta. Đến đây, chất liệu được hiểu như một phần hiện thực cuộc sống, được khu biệt và giới hạn bởi nhận thức chủ quan của tác giả. Rồi từ chất liệu ấy sẽ dẫn đến đề tài và ngược lại, đề tài sẽ kiểm tra chất liệu xem có phù hợp hay không. Bởi vì cho dù có được gọi là “chất liệu” như nhau, nhưng rõ ràng là gỗ mít không thể đem ra bắc cầu, và gốc bạch đàn thì chẳng có ai lại tạc thành tượng Phật.
Không thể nói đề tài và chất liệu, cái nào có trước, cũng như chẳng nên tranh cãi về quả trứng và con vịt. Trong rất nhiều trường hợp, việc làm phim tài liệu bắt đầu từ lúc người ta được phân công và nhận đề tài. Nhóm sáng tạo thường khó mà từ chối, và lúc đó mới nghĩ đến chất liệu của bộ phim. Vai trò cái “tôi” chủ quan của tác giả đã xuất hiện, và sự lao động sáng tạo của anh ta cũng bắt đầu. Chỉ có điều, đề tài là một phần nhỏ bé trong kho tàng chất liệu mà người nghệ sĩ đã tích lũy, góp nhặt được lấy ra sử dụng, nhưng nó lại đòi hỏi rất nhiều cái mà anh ta chưa có. Ví dụ làm một bộ phim về học sinh các dân tộc thiểu số ở vùng cao. Chẳng nói thì ai cũng biết, các em sống rất khó khăn, cơ cực. Nhưng khi đến nơi, mới giật mình: giữa ngày nắng chang chang, các em cứ chân đất đầu trần mà đến lớp. Phòng học được bố trí cùng một lúc hai lớp khác nhau, với chừng hai chục học sinh. Các cháu ngồi quay lưng lại, nhìn lên hai tấm bảng đen cũ kĩ ở hai bức tường đối diện. Cô giáo người Tày, dùng tiếng Kinh giảng bài cho các cháu người Mông và Dao; toán cho lớp này và tập đọc cho lớp kia, cùng một lúc. Buổi trưa, một gói mì ăn liền được nấu với rất nhiều nước, đã là món canh ngon lành cho ba bốn cháu ăn cơm. “Chất liệu” ấy, nếu cứ ngồi ở Hà Nội thì làm sao hình dung ra được? Xin lưu ý, đây là những hình ảnh trong bộ phim Trên trận tuyến giảm nghèo được VTV1 Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất và phát sóng năm 2006. Nhưng rất có thể, cho đến tận hôm nay tình hình vẫn chưa có gì thay đổi.
Có những đề tài được coi là lớn, nhưng cũng không ít đề tài bị chê là nhỏ. Điều này nhiều khi lại do cách nhìn nhận, đánh giá của mỗi người. Hơn một lần, chúng ta thấy những bộ phim có đề tài rất… “vĩ mô”, “hoành tráng” nhưng xem xong chẳng có được cảm xúc gì. Ngược lại, có những phim dường như chỉ nói về những điều nho nhỏ quanh ta trong cuộc sống hàng ngày, nhưng ấn tượng do nó tạo nên thì thật khó mà phai nhạt. Tương tự, là cách hiểu về khoảnh khắc và vĩnh cửu. Một phần năm mươi giây của cuộc đời – bộ phim nhỏ của Đào Trọng Khánh đâu phải chỉ là khoảnh khắc?
Tất nhiên, giữa đề tài và phong cách tác giả cũng như thể loại tác phẩm có những mối quan hệ tương hỗ với nhau. Vì thế mới sinh ra hiện tượng, có những người nhìn đâu cũng thấy chuyện để mà cười, trong khi nhiều vị động đến cái gì cũng đều “nghiêm trọng” hết. Nhưng dù gì chăng nữa, thì đặc trưng thể loại và ngôn ngữ hình ảnh cũng chi phối một cách đáng kể quá trình sưu tầm chất liệu và lựa chọn đề tài, vì không phải cái gì cũng dễ dàng đưa lên màn ảnh được. Thêm vào đó là vấn đề dung lượng, thời lượng, v.v.
Vậy thì làm thế nào để khai thác được hiện thực cuộc sống, biến nó thành chất liệu trong phim? Câu trả lời, là trên thế giới cũng như ở Việt Nam, người ta thường sử dụng mấy phương pháp như sau:
Phương pháp trực tiếp: là phương pháp ra đời sớm nhất, được sử dụng nhiều nhất trong tất cả các thể và các loại phim tài liệu nói chung. Phương pháp này đem lại tính chân thực cao qua việc ghi lại hình ảnh người thật, việc thật đang hiện hữu trong cuộc sống. Đây cũng là phương pháp dễ thực hiện nhất, nhưng lại khó sử dụng trong các loại phim về đề tài lịch sử hay những sự kiện đã qua. Với phương pháp trực tiếp, bộ phim dường như luôn luôn ở “thì hiện tại”, thậm chí không cần sử dụng thêm một tư liệu nào. Có thể thấy rất rõ phương pháp này qua các bộ phim như Gầm cầu mặt nướccủa Sĩ Chung, Bài ca trên đỉnh Tà Lùng (đạo diễn Trần Phi), Hoa xương rồng trên cát (NSƯT Bùi Ngọc Hà), Không ai là vô danh (đạo diễn Trần Minh Đại) và đặc biệt là Những linh hồn phiêu bạt của Borix Lushkin.
Phương pháp gián tiếp: thông qua tĩnh vật (thư từ, nhật kí, tranh vẽ, ảnh chụp, hiện vật…) hoặc các hình ảnh động (phim thời sự, tư liệu, tài liệu, v.v.) nhưng phương pháp này rất dễ bị phá vỡ khi nó kết hợp với phương pháp trực tiếp trong trường hợp cần “ngược dòng quá khứ”. Lẽ đương nhiên, các tư liệu, tĩnh vật, hiện vật… cần phải được sử dụng một cách có chọn lọc, nhằm tránh sự hiểu lầm, làm giảm sức thuyết phục hoặc gây nhàm chán cho người xem, bởi vì những bộ phim tài liệu sử dụng phương pháp này chiếm một phần cực lớn trên phạm vi toàn thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Xin hãy cùng nhớ lại một số hình ảnh trong phim Hồ Chí Minh, chân dung một con người của NSND Bùi Đình Hạc. Máy quay chuyển động rất chậm theo cầu thang lên nhà sàn của Bác. Căn phòng nhỏ, một chiếc giường, chiếc gối. Tủ đựng quần áo, trong tủ chỉ có đúng một chiếc áo kaki. Bàn làm việc, máy thu thanh, chiếc mũ cát… Tất cả đều một hết! Có ai trong chúng ta không mủi lòng, cay cay khóe mắt, chợt hiểu thêm phần nào cuộc sống của vị lãnh tụ kính yêu trong những năm tháng cuối đời?
Cảnh trong phim Việt Nam Cuộc chiến tranh 10.000 ngày
Dựng lại tư liệu cũ theo những quan điểm mới là phương pháp rất khó thực hiện, nhưng nếu làm được, sẽ có thể đem lại hiệu quả rất mạnh và sâu. Theo phương pháp này, người ta phải huy động tư liệu cũ từ những nguồn khác nhau, gồm các loại phim thời sự, tư liệu, tài liệu sẵn có mà không cần phải bổ sung thêm hình ảnh mới. Nhưng phương pháp thứ ba này lại có yêu cầu rất cao về thái độ chính trị, ý thức và lập trường tác giả. Nó đặc biệt thích hợp với thể phim tài liệu chính luận nói chung. Vấn đề là ở chỗ, nguồn tư liệu phải thật phong phú, đa dạng, có giá trị nhất định về mặt sử liệu, khả dĩ đáp ứng được nhu cầu của người làm phim. Như vậy, cũng có nghĩa là tiền bản quyền rất lớn, không phải ai cũng đủ khả năng chi trả.
Có thể thấy Daniel Costele đã tỏ ra xuất sắc đến như thế nào khi ông dùng phương pháp này để cho ra đời bộ phim Chiến tranh Việt Nam – những hình ảnh chưa được biết đến. Dựa trên cơ sở hàng triệu mét phim tư liệu được các nhà quay phim Mỹ thực hiện từ những năm sáu mươi, tác giả đã lựa chọn, sắp xếp, xây dựng thành một bộ ba, mỗi tập dài tới tận gần một tiếng đồng hồ mà vẫn cực kì hấp dẫn. Được công chiếu ở nhiều nơi trên thế giới, Chiến tranh Việt Nam… cũng đã đến với đông đảo người xem qua làn sóng truyền hình của VTV1, cho chúng ta một cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt này. Vậy mà không dừng lại ở đó, vừa qua Daniel Costele lại cho ra mắt xê-ri phim tài liệu nói về Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai, cũng được làm theo phương pháp trên (Truyền hình Việt Nam đã phát sóng). Tác giả còn kì khu đến mức nhuộm màu cho từng khuôn hình một, trên những mét phim tư liệu vốn dĩ chỉ là đen và trắng.
Tư liệu, tài liệu trong phim là như vậy, nhưng than ôi… trong một buổi kiểm tra học trình, với câu hỏi: “Anh (hay chị) hãy cho biết tầm quan trọng của việc sử dụng tư liệu, tài liệu trong quá trình xây dựng một bộ phim tài liệu hoặc kí sự truyền hình” thì khoảng chín mươi phần trăm sinh viên báo chí năm thứ ba lại hồn nhiên nhất trí đưa ra định nghĩa: “Tư liệu là tài nguyên thiên nhiên, cái có sẵn, dùng chung. Tài liệu là một loại văn bản, dùng để quản lí điều hành sản xuất…”. Thật không thể nào hiểu nổi!
Do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có bộ phim tài liệu nào được làm theo phương pháp dựng lại các tư liệu cũ. Kể cả khi từ sáu nghìn phút phim do người Nhật thực hiện trước đây, Truyền hình Việt Nam đã xây dựng thành mấy trăm tập Kí ức Việt Nam, mỗi tập dài …5 phút!
Nguyễn Hậu
Facebook Comments