Nhớ nhà thơ Phạm Tiến Duật

Nhà thơ Anh Ngọc: Chào buổi sáng quý bạn!

Như đã nói trong các stt hôm qua và hôm kia, trong mươi ngày cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 2007, ba nhà thơ quân đội nổi tiếng đã giã từ cõi thế. Hai hôm vừa rồi tôi đã post lại những bài viết để tưởng nhớ các nhà thơ Chính Hữu và Vũ Cao, hôm nay xin post lại bài tôi viết về một bài thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật, để tưởng nhớ anh Phạm Tiến Duật, nhà thơ trẻ nhất trong ba nhà thơ cùng ra đi vào cõi Vĩnh Hằng dạo ấy.
Xin mời quý bạn đọc lại.

Một bức ảnh hiếm hoi có mặt nhà thơ Phạm Tiến Duật mà tôi còn giữ được: Ảnh chụp sát bờ biển, dưới chân đèo Lý Hòa, Quảng Bình, tháng 4.1977, khi chúng tôi vừa đi dự lễ Khánh thành Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn về ngang qua, anh Phạm Tiến Duật ngồi hàng trước, thứ ba từ phải sang, A.N. đứng hàng sau, thứ hai từ phải sang… – A.N.

 

PHẠM TIẾN DUẬT

NHỚ

(Lời một chiến sĩ lái xe)

Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy, nhớ lưng đèo.

*

LỜI BÌNH CỦA ANH NGỌC

Trong chiến tranh chống Mỹ, nhà thơ Phạm Tiến Duật công tác ở Binh đoàn vận tải Trường Sơn. Anh trưởng thành và khẳng định vị trí trên thi đàn cũng bằng những bài thơ viết về cuộc sống và chiến đấu của những người chiến sĩ trên mặt trận này, mà chủ yếu là những người lái xe vận tải quân sự với những đặc thù vừa riêng của công việc lại vừa chung cho thần thái của nhiều người lính thời bấy giờ, như Trường Sơn đông Trường Sơn tây, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong, Lửa đèn, trường ca Những vùng rừng không dân v.v… Tính nhất quán đến đậm đặc trong đề tài và chất liệu thơ ấy góp phần giúp anh có một “chiếu” riêng khó lẫn trong nền thơ chống Mỹ. Bài thơ nhỏ (vì nó ngắn) mà ta đang nói tới cũng mang đậm cả chất thơ và giọng thơ Phạm Tiến Duật.
Xưa nay, Cổ Kim Đông Tây viết về nỗi nhớ vốn nhiều vô kể, vì đấy là một phạm trù tình cảm rất mạnh và phong phú. Thông thường, nhớ vẫn đi với buồn, làm thành cụm từ “buồn nhớ” : buồn nhớ quê hương, gia đình, bè bạn, người yêu… Nhân vật người chiến sĩ lái xe trong bài thơ này cũng không tránh khỏi có nét buồn, nhưng rõ ràng hơn nhiều là anh đang ở tâm trạng lo lắng – nói “hàng còn chờ đó” là thổ lộ nỗi lo. Lo đã đành cũng có sắc thái tình cảm, nhưng vẫn nghiêng về phía lý trí nhiều hơn, nên “lo” khó thành thơ hơn. Thế nên, ngay sau nỗi lo, tâm thế của nhân vật chuyển ngay sang trạng thái buồn – ba từ tiếng xe reo đã để lộ một thoáng buồn kín đáo – không chỉ kín đáo mà còn tinh tế, bởi “reo” là một từ vốn để tả niềm vui, nhưng trong văn cảnh này, tiếng “reo” hóa thành một nghịch cảnh, ví von vui vẻ một chút thì cũng tựa như chính vẻ đẹp của “cảnh sơn lâm bóng cả cây già” lại là thủ phạm gây ra nỗi buồn nhớ rừng của con hổ trong thơ Thế Lữ.
Vậy là người chiến sĩ này đang nhớ. Anh nhớ gì vậy? – Nhớ công việc. Hẳn thế. Nhưng công việc vốn là những sự vụ vô hồn và khô khan đem vào thơ ra sao đây? Nhà thơ chiến sĩ này đã khôn khéo đem trộn công việc vào trong cảnh trí, mà cảnh trí trên đường lái xe Trường Sơn thì nên thơ lắm, vậy nên mới bật lên hai câu thơ tuyệt đẹp :
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
Người viết đã lựa cho các tư thế nằm ngồi hợp với cảnh trí trong nỗi nhớ, mà cảnh trí thì như dựng hết lên không gian quá đỗi thân gần của người lái xe Trường Sơn – Những bến sông, bến suối, những đèo cao gió lộng, và thêm vào đó là một ánh trăng vốn đã là bạn cố tri của những anh bộ đội từ thuở “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu. Nói nhà thơ đã khéo lồng nỗi nhớ công việc vào trong cảnh trí cũng là nhìn từ một phía. Thực ra, nỗi nhớ cảnh, nhớ người là nỗi niềm cũng da diết chẳng kém gì nỗi lo công, tiếc việc, bởi còn ai đa tình, đa cảm bằng những con người đi xả thân vì dân, vì nước, những “khách chinh phu hiện đại” luôn lấy trời đất làm nhà cửa, lấy núi cao sông dài làm nơi chốn hẹn hò.
Ngẫm nghĩ kỹ một chút, ta thấy hai câu thơ ý vị này còn có thêm một nét duyên thầm nữa. Ấy là : Ngoài việc chỉ hai câu thơ mà có đến ba từ “nhớ” làm thành một điệp ngữ có sức tô đậm ấn tượng, ta còn nhận ra chính ba động thái “nằm ngửa – nằm nghiêng – ngồi dậy” đã làm hiện lên như vẽ trước mắt ta một nỗi gì trăn trở khôn nguôi trong lòng nhân vật, cái nỗi nhớ khiến con người bất an “như đứng đống lửa, như ngồi đống than” vẫn từng sống trong câu ca dao của người xưa. Cha ông nói : Trăm nghe không bằng một thấy. Điều này đã được ngôn ngữ văn học xác minh : Những chi tiết khách quan đập vào trực giác luôn có hiệu quả mạnh hơn mọi lời thuyết lý.
Với tất cả sự tinh tế ấy của ngôn ngữ thơ, theo thiển ý của tôi, bài thơ nhỏ xinh xắn này của Phạm Tiến Duật chắc chắn có một chỗ đứng vững vàng bên cạnh những bài thơ dài dặn khác của anh.

Anh Ngọc

P.S. Một bức ảnh hiếm hoi có mặt nhà thơ Phạm Tiến Duật mà tôi còn giữ được: Ảnh chụp sát bờ biển, dưới chân đèo Lý Hòa, Quảng Bình, tháng 4.1977, khi chúng tôi vừa đi dự lễ Khánh thành Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn về ngang qua, anh Phạm Tiến Duật ngồi hàng trước, thứ ba từ phải sang, A.N. đứng hàng sau, thứ hai từ phải sang… – A.N.

Facebook Comments