Có mặt tại Trại Davis (thuộc Sân bay Tân Sơn Nhất) vào những năm 1973, sống trong lòng địch, âm thầm chiến đấu với địch trên mặt trận ngoại giao những năm tháng ý nghĩa khi Hiệp định Paris được kí, ông là người đã cắm lá cờ giải phóng trong ngày đại thắng 30.4.1975 tại sân bay Tân Sơn Nhất. Câu chuyện của ông về những ngày tháng đầy gian khổ nhưng vẻ vang, oanh liệt đủ thấy những chiến công thầm lặng của những người lính ở Trại Davis năm xưa và sự dũng cảm của người con quê lúa Thái Bình Phạm Văn Lãi. |
823 ngày đêm chiến đấu nơi sào huyệt kẻ thù
Vừa nghỉ hưu được gần một năm nay, ông đang phải chiến đấu với chứng thoát vị đĩa đệm và bệnh gút nên sức khỏe rất yếu, không thể ngồi được lâu và thường xuyên phải vào bệnh viện điều trị. Thế nhưng khi được nghe chúng tôi – những người trẻ hôm nay mong mỏi được nghe về quá khứ hào hùng của dân tộc, ông hào hứng và hồ hởi cuốn vào kỉ niệm và những năm tháng không thể nào quên hiện hữu trên gương mặt đã xếp tầng những nếp thời gian. Đó là những ngày cả nước hướng về Miền Nam ruột thịt. Người chiến sỹ quê Vũ Thư, Thái Bình dù đang học trường cán bộ thể dục thể thao tại Bắc Ninh vẫn dũng cảm làm đơn xin xung phong vào bộ đội. Đào tạo 6 tháng rồi ra chiến trường, Phạm Văn Lãi cùng đồng đội Nam tiến. Từ chiến trường khốc liệt với tiếng súng, tiếng bom, ông và đồng đội bước vào cuộc chiến đấu mới, cuộc chiến đấu về ngoại giao quân sự xung quanh những vấn đề quan trọng đầu tiên của Hiệp định Paris. Năm 1973, ông là cán bộ, chiến sĩ của Phòng điện ảnh (đơn vị có mật danh là B8) thuộc Cục Chính trị Quân giải phóng miền Nam (Cục Chính trị B2) hoạt động tại trại Davis. Kể những câu chuyện xung quanh phái đoàn đặc biệt này, ông bảo rằng đó là những ngày tháng “sống trong lòng địch”, không vũ khí, đầy cạm bẫy nhưng những người lính Cụ Hồ kiên định, hiên ngang đã đánh bật mọi dã tâm của kẻ thù. Sau khi Hiệp định Paris được kí, theo quy định, đầu tháng 2/1973, hai phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có mặt tại Trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất, tham gia Ban Liên hợp quân sự Trung ương 4 bên, có nhiệm vụ phối hợp hành động bảo đảm thi hành những điều khoản về quân sự của Hiệp định Paris. Trại được ví như một căn cứ lõm giữa sào huyệt đối phương, một trận địa cách mạng công khai trong lòng địch.
“Và chúng tôi đã trải qua 823 ngày đêm đấu tranh trực diện, công khai với Mỹ – ngụy. Những năm tháng lịch sử ấy, chúng tôi đã kiên cường bám trụ để đấu tranh, phối hợp với quân dân cả nước buộc quân Mỹ phải rút khỏi nước ta, đánh cho quân ngụy sụp đổ hoàn toàn ngay trong sào huyệt của chúng” – ông như reo lên trong cảm giác của người chiến thắng bằng chất giọng vẫn đặc sệt quê lúa Thái Bình. Không có vũ khí, lại nằm gọn trong lòng địch, các ông đã chiến đấu như thế nào vậy? – chúng tôi tò mò. Như chạm vào cảm xúc của người đã kinh qua, ông kể nhiều về những phương pháp chiến đấu với địch đầy khôn ngoan và sáng suốt của phái đoàn ta trong trại Davis. Để tránh sự nghi ngờ của kẻ thù, những chiến sĩ cách mạng công khai giữa lòng địch, dù cuộc sống bị giới hạn bởi hàng rào dây thép gai tứ phía, 13 vọng gác xung quanh, vẫn rất lạc quan, yêu đời. Những hoạt động rèn luyện cơ thể, tinh thần như thể dục thể thao, ca nhạc, chiếu phim được duy trì đều đặn. Mặt khác, chúng ta vẫn bí mật đào hầm trú ẩn, tìm mọi cách để “tuồn” vũ khí vào trại, vận dụng mọi khả năng để cảm hóa những người lính ngụy bên kia chiến tuyến. Công tác dân vận được đẩy mạnh và đạt hiệu quả cao đã góp phần quan trọng cho ngày giải phóng. “Công việc chính của tôi khi đó là phụ trách công vụ, nhận tài liệu, báo chí, và phim nhựa từ Gia Lâm (Hà Nội) chuyển vào”. – ông nhấn mạnh. Hai lần cắm cờ như cơ duyên Làm công tác công vụ, phụ trách chiếu phim? Nhưng lại là người cắm cờ trên tháp nước trong sân bay Tân Sơn Nhất? – chúng tôi hào hứng bị cuốn vào câu chuyện của người đàn ông đã ngoại tuổi lục tuần này. Đó là một câu chuyện dài, tôi nghĩ mình may mắn lắm– ông cười rất vui vẻ rồi thủ thỉ kể: Ngày 26-4, Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, năm cánh đại quân rầm rập tiến vào hang ổ cuối cùng của địch, hệ thống hầm hào chiến đấu trong đơn vị đã thông suốt. Đêm 28 rạng ngày 29, pháo ta nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Như lệnh cấp trên chúng tôi vẫn bình thản vì chắc chắn sẽ có đơn vị mở “đường máu” đưa phái đoàn thoát hiểm. Khoảng 8h00 ngày 30-4, Thiếu tướng Trưởng đoàn Hoàng Anh Tuấn lệnh cho Trung tá Mười Sương, Trưởng ban Chính trị gọi tôi lên giao nhiệm vụ vào kho lấy lá cờ to nhất mang cho vệ binh cắm lên tháp nước. Ngay lập tức, tôi vào kho lấy lá cờ nhưng khi cầm đến đơn vị vệ binh thì các đồng chí đã đi làm nhiệm vụ khác. Trong tình thế đó, tôi không còn thời gian để suy nghĩ nữa, quyết định tự mình cắm cờ. Tôi gọi đồng chí Nguyễn Văn Cẩn – một chiến sỹ gác cổng trại, đề nghị cùng tôi leo lên cắm cờ trên nóc tháp nước Trại Davis. Chúng tôi lao qua bom đạn, tiến lên tháp nước cao chót vót và hoàn thành nhiệm vụ lúc 9h30 phút sáng 30/4/1975. Lá cờ rất to và nặng, lại bị sức gió quật ghê gớm. – Lúc đứng trên đỉnh tháp buộc cờ, phía dưới còn địch, phơi mình trên cao, ông có nghĩ đến chẳng may có viên đạn lạc bắn vào mình không? Rất thật thà, ông trả lời ngay: Lạ thật, lúc ấy tôi chỉ lo buộc cờ sao cho chắc, chẳng nghĩ gì đến chuyện mình có thể trúng đạn, hy sinh cả. Thậm chí, khi một đoàn nhà báo đề nghị chụp ảnh chúng tôi còn đứng lại trên đó và cảm giác như chúng ta đã chiến thắng. Lá cờ giải phóng trên tháp nước trong sân bay Tân Sơn Nhất, từ xa hàng cây số đã nhìn thấy có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với thời khắc lịch sử lúc đó. Nó vừa là hoa tiêu cho pháo binh ta tính toán phần tử bắn chính xác, làm chuẩn cho bộ đội tiến công. Đồng thời là liều thuốc tinh thần khích lệ quân ta tấn công vào sào huyệt và giải phóng. Ngay lập tức, Quân địch ở Bộ Tổng Tham mưu ngụy tại cổng Phi Long cách đó gần 1 cây số, lính Sư đoàn dù, đơn vị tăng – thiết giáp ngụy đóng gần Trại Davis và tàn quân đang tháo chạy nhìn thấy lá cờ giải phóng, càng thêm hoảng loạn và nhanh chóng tan rã.
“Sáng 1-5, tôi được thủ trưởng giao nhiệm vụ trèo lên cột cờ Dinh Độc Lập, thay lá cờ anh Bùi Quang Thận cắm lúc 11h30 hôm trước. Lá cờ anh Thận cắm bị mắc dây, không mở ra được, cũng không hạ dây kéo xuống được. Cột cờ cao, trơn nhẵn, tôi phải lấy dây dù buộc vào hai chân như kiểu bà con Nam bộ leo dừa, trèo lên gỡ dây rối, thay lá cờ mới to hơn, rộng hơn. Đó là lần thứ 2 tôi được cắm cờ”. – ông nói. Dân Thái Bình nhà ông chuyên đi cắm cờ, từ ông Tạ Quốc Luật ở Điện Biên Phủ thời đánh Pháp đến ông Bùi Quang Thận cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập lúc 11h30 ngày 30-4-1975. Và ông là người cắm cờ trên tháp nước trong sân bay Tân Sơn Nhất.”- Chúng tôi khích lệ. Người đàn ông đầy hãnh diện và sự xúc động như hiện rõ trên gương mặt khi thấy chúng tôi nhắc đến quê hương. Ông bảo rằng, chỉ vài tháng nữa thôi, khi vợ ông được nghỉ hưu, hai ông bà già sẽ trở về Thái Bình nghỉ dưỡng tuổi già. Chúng tôi hy vọng những ngày tháng bình yên nơi quê lúa, căn bệnh của ông sẽ đỡ hơn. Người chiến sỹ có công lớn, cắm cờ giải phóng ở Sân bay Tân Sơn Nhất hẹn chúng tôi một ngày về thăm quê hương ông… Hà Vân Theo congluan.vn |
Gặp lại người cắm cờ giải phóng ở Trại Davis
Đăng bài: Vũ Quang 2019/06/12
Facebook Comments