Chào buổi sáng đầu xuân quý bạn thân yêu!
Hôm nay, mồng 2 Tết – thế là chúng ta đã đặt cả hai chân vào mùa Xuân của năm Giáp Ngọ, một năm có nhiều ngày kỷ niệm lịch sử, như 70 năm thành lập QĐNDVN, và đặc biệt là kỷ niệm tròn một Hoa giáp (60 năm) ngày diễn ra chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, một chiến thắng “chấn động địa cầu”, mang tầm vóc thời đại và nhân loại, góp phần quan trọng làm nên một phần lịch sử hiện đại của đất nước chúng ta.
Để tham gia ít nhiều vào những hoạt động trong mùa xuân giàu ý nghĩa này, xin được post lên đây bài tùy bút của tôi vừa đăng trên Số Xuân Giáp Ngọ của Báo QĐND CUỐI TUẦN để hầu quý bạn đọc thân yêu của cái FB bé nhỏ này!
Xin mời quý bạn!
ANH NGỌC
ĐÃ SÁU MƯƠI MÙA HOA BAN NỞ
Lại một mùa xuân mới đang về trên khắp đất nước ta.
Với những con dân Đất Việt và nhất là những người lính chúng ta, dường như mùa xuân cứ luôn gắn với một sự kiện gì đó vô cùng thiêng liêng của vận mệnh dân tộc, đánh thức trong ta những kỷ niệm sâu thẳm mà ngày thường bận rộn với bao công việc và lo toan thường nhật có thể chúng ta vẫn quên đi.
Vâng, mùa xuân Giáp Ngọ mà ta đang dang tay đón chào đây hàm chứa trong ta bao kỷ niệm.
Đó là vào 70 năm trước, trong tận một cánh rừng sâu miền Việt Bắc, một đội quân gồm chỉ cỡ một Trung đội không hơn, đã lần đầu tiên tập hợp lại thành một đội ngũ chỉnh tề, trên tay chỉ có mấy cây súng kíp hay mút – cơ – tông lấy được của quân địch, mấy quả lựu đạn và mấy lưỡi gươm tự rèn, tự tạo…, dưới sự chỉ huy của vị Tổng Tư Lệnh trẻ măng, dáng dấp nhà giáo hơn là tướng tá…, một đạo quân không thể nhỏ bé và thô sơ hơn như vậy, nhưng đã làm một cuộc ra quân ngoạn mục có một không hai trong lịch sử dân tộc: liên tục chiến đấu và chiến thắng, liên tục lớn lên với tốc độ của chàng Phù Đổng Thiên Vương hiện đại, để chỉ không đầy một năm sau, đã hỗ trợ đầy hiệu quả cho cuộc nổi dậy của nhân dân cả nước, làm nên cuộc Cách Mạng Mùa Thu 1945, đánh dấu một kỷ nguyên mới trong lịch sử 4000 năm giành và giữ nước oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
Cũng đạo quân ấy, chỉ đúng một năm sau, đã nổ những phát súng đầu tiên nghênh chiến với một đạo quân xâm lược vào hàng Tứ Cường của thế giới, những tên thực dân Pháp được trang bị tận chân răng, với súng ống, đạn dược, xe tăng, tàu chiến, máy bay hiện đại…, đạo quân đã từng cùng quân Đồng Minh đánh bại bọn phát xít Đức, nhưng khi quay mũi súng tấn công vào những người dân thường lương thiện Việt Nam, nơi mà chúng tưởng có thể trở lại áp đặt ách đô hộ một lần nữa dễ như trở bàn tay…, thì, như một tấn bi hài kịch lịch sử lớn lao, chúng đã bị đạo quân non trẻ vừa tròn lễ “Thôi Nôi” kia giáng cho những đòn chí mạng, với một lối đánh giặc cũng chưa từng có trong lịch sử!
Và thế là, bây giờ chúng ta đã đến trước mùa xuân năm Giáp Ngọ của một chu trình vận động tròn 60 năm, để gặp lại một mùa xuân Giáp Ngọ đã qua gần nhất, mùa xuân năm 1954, khi những cánh rừng hoa ban Tây Bắc ngày ấy bắt đầu nhú những mầm non đầu tiên, thì ít ai ngờ rằng rồi ra đó sẽ là một mùa hoa ban được chứng kiến một trong những chiến tích chống ngoại xâm vĩ đại bậc nhất của lịch sử chúng ta: Chiến thắng Điên Biên Phủ lừng lẫy địa cầu!
Ôi, những cánh hoa ban, ai biết được chúng đã có mặt trên mảnh đất Tây Bắc Việt Nam ta từ những thuở nảo, thuở nào, từ cái thuở Tổ quốc chúng ta:
“…Còn chưa in dấu vết chân người
Những bờ bãi thủy triểu lên lại xuống
Quả thị chín chưa nở thành cô Tấm
Chưa thấm buồn, sương khói cũng vu vơ
Trời đất vô tình sáng nắng, chiều mưa
Sông cứ chảy, núi rừng không tên gọi
Mọi bông hoa đều là hoa dại
Tỏa hương thơm nhưng chẳng để làm gì
Mặt đất mênh mông chưa có đường đi
Người chưa tới và gió ngàn cứ thổi…”
(Trường ca “Điệp khúc vô danh” – A.N.)
Vâng, có thể là từ những thuở ấy, loài hoa ban đã có mặt ở trên mảnh đất này. Chỉ có điều chúng đã tồn tại như thế với vô vàn mùa xuân nhuộm trắng những cánh rừng Tây Bắc, nhưng sẽ chẳng bao giờ chúng đột nhiên trở thành ký ức của cả dân tộc, của nhân dân ta từ Bắc đến Nam và cả của nhân dân bạn bè trên thế giới, nếu không có cái mùa xuân Giáp Ngọ ấy, mùa xuân năm 1954, khi tận trong một khe núi sâu của chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ và Bộ Chỉ Huy tối Cao của Đảng và Chính Phủ, những nhà lãnh đạo kiên cường và sáng suốt của cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, đã họp bàn và ra quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, chấp nhận một cuộc đối đầu lịch sử với đạo quân xâm lược hùng mạnh là thực dân Pháp được đế quốc Mỹ chống lưng vững chãi đàng sau!
Và không ai khác, chính những cánh hoa ban Tây Bắc ngày ấy đã là những chứng nhân cho những cuộc hành quân chân đất của bộ đội và dân công ta ngược rừng Tây Bắc trong mưa phùn, gió bấc, trong giá buốt bùn lầy… của:
“Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn…”
Những cánh hoa ban đã thay mặt tất cả con dân Đất Việt cúi đầu vĩnh biệt những người chiến sĩ – liệt sử đã đi vào huyền thoại: Những Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Trần Can…., đã phủ những cánh hoa ân tình và thương tiếc lên phần mộ của các anh, những người chiến sĩ đã nhuộm thắm mỗi tấc đất Điện Biên năm ấy, và cùng với nhưng rừng lau bạt ngàn phủ trắng những triền đồi lịch sử Him Lam, A1, C1… như một nấm mồ vĩ đại và tuyệt vời mà Trời Đất đã đắp lên trên những mảnh thịt xương thiêng liêng của những đứa con đã ngã xuống vì Tổ Quốc.
Có ở đây, đôi chút kỷ niệm của riêng tôi…
Lần thứ nhất: Ấy là vào năm 1979, khi là phóng viên Báo QĐND được lên thăm Điện Biên Phủ để chuẩn bị bài vở cho đợt kỷ niệm 25 năm ngày chiến thắng vĩ đại này, tôi lang thang một mình qua các trận địa cũ với tâm trạng kỳ lạ khi kinh ngạc nhận ra: vì sao mới lần đầu gặp gỡ mà mảnh đất này lại quá thân gần với mình đến mức hầu như tôi không còn chút ngạc nhiên gì… Một chiếc xe tăng cháy đen và hoen rỉ nằm vùi trong ruộng lúa, ngỡ như nó bị đốt cháy bởi chính ngọn lửa màu xanh kia của những nhánh lúa tươi non đang độ đâm đòng, và cái tên Điện Biên không chỉ còn là tên một trận đánh, một cuộc đối đầu của bom đạn và lửa khói ngút trời, mà là tên một phiên chợ quê thơm phức mùi rau xanh và hoa trái quê hương… Và tôi chợt nghĩ: Có một mối liện hệ gì đó giữa sự bất tử của cuộc sống hồn nhiên trên mặt đất này với sự bất tử của những chiến công của con người khi phải một lần đứng lên làm những “anh hùng bất đắc dĩ” để gìn giữ cho sự bất tử của cuộc sống tươi xanh kia:
“Anh không là đám mây trắng vô tư
Trên đỉnh Pú Hồng Mèo lặng lẽ
Trái tim anh đập một lời giản dị:
Ngọn cỏ đời đời xanh suốt tháng năm
Ngọn cờ mọc lên chỉ có một lần
Nhưng có điều này –
Cả hai đều bất diệt.”
(“Trở lại Điên Biên – lá cờ và ngọn cỏ” – A.N.)
Còn lần thứ hai: Ấy là vào đầu xuân năm 2004, để tiến hành Ngày Thơ Việt Nam lần thứ hai, kết hợp với kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, mấy anh em nhà thơ, nhà văn của Tạp chí VNQĐ lại có dịp trở lại thăm mảnh đất chiến trường xưa. Và ấn tượng mạnh nhất của riêng tôi trong chuyến may mắn được lên Điện Biên bằng máy bay ấy là khi chiếc máy bay nghiêng cách lượn vòng trên thung lũng để chuẩn bị hạ cánh, tôi và nhà thơ Lê thành Nghị ngồi bên bỗng như cùng thốt lên: “Ôi, sao mà màu mây của Điện Biên lại trắng đến thế, trắng đến lạ thường…”.
Và bạn biết không, trong suốt chuyến đi ấy, trong đầu tôi chỉ quẩn quanh một ý nghĩ cắt nghĩa sao đây cho cái màu trắng lạ lùng của những áng mây trên vòm trời Điên Biên. Và bài thơ “Trời Điện Biên mây trắng” của tôi năm ấy đã ra đời, chỉ để làm một việc là cắt nghĩa vì sao mây trên trời nơi đây lại trăng?!… Và tôi đã tìm được cả một tá lý do để cắt nghĩa điều này, mà câu mở đầu chính là:
“Trời Điện Biên mây trắng
Trắng như màu hoa ban…”
Bài thơ khá dài và đã in nhiều lần, xin được không nhắc thêm ở đây. Chỉ biết rằng từ đó trong tôi dường như khi nói đến Điện Biên thì hình ảnh màu mây nơi đây, nhất là hình ảnh lộng lẫy và bạt ngàn của những cánh hoa ban đã che rợp cả hồn tôi!
Tôi sẽ không thể chấm dứt bài viết chào đón mùa xuân Giáp Ngọ này với sự kiện chúng ta sắp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, nếu không nhắc đến một nỗi niềm thương cảm vô hạn, khi mới cách nay chưa lâu, tất cả chúng ta đã phải chia tay vĩnh viễn với Người Anh Cả của QĐNDVN, người Tổng chỉ huy với những quyết địch quả cảm và thiên tài đã làm nên đại thắng Điện Biên 60 năm trước – Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, “anh Văn” của không chỉ toàn quân mà là toàn dân ta.
Chỉ xin nhắc lại một chi tiết về vị Đại Tướng huyền thoại mà tôi vô cùng yêu, kính và đã viết về Người bằng tất cả sự trân trọng trong bài thơ “Vị tướng già” mà nhạc sĩ Quỳnh Hợp đã kịp phổ nhạc thành công để cất lên tha thiết trong những giờ phút tiễn biệt Đại Tướng đi vào coi Vĩnh Hằng – chi tiết đó là: Ngay trong Ngày Lễ Mừng Công và Vinh Danh toàn thể chiến sĩ ngay tại Điện Biên, vị Đại Tướng có biệt danh Anh Văn ấy đã… lẻn ra sau bức phông màn rực rỡ của buổi lễ, để đứng một mình và rút khăn mù xoa lau nước mắt! Ôi cái câu thơ mủi lòng mà tôi thật vô ý không nhớ tên tác giả:
“Chiến trường ai khóc chia phôi
Khải hoàn ai nhớ đến người hôm qua!”
Giờ phút đó đã không còn đúng nữa, bởi những giọt nước mắt âm thầm mà đau xé của vị “nhất tướng công thành” nhưng không bao giờ quên bất cứ một ai trong số “vạn cốt khô” đang nằm trong lòng đất Điện Biên kia!
Ôi, vị tướng của chúng ta, trái tim CON NGƯỜI VIẾT HOA của chúng ta, người bình dị mà phi thường, người nghệ sĩ đích thực dưới màu quân phục của một vị Đại Tướng Tổng Tư Lệnh một quân đội bách chiến, bách thắng là thế đó!!!
Vâng, đã sáu mươi mùa hoa ban nở, kể từ mùa xuân năm Giáp Ngọ 1954, để đến mùa xuân năm Giáp Ngọ 2014 này, trời đất đã đi trọn một vòng quay theo niên lịch của Phương Đông, chúng ta chào đón một mùa xuân nữa lại đang về cùng đất nước và dân tộc.
Xin hãy cùng tôi đốt lên một nén tâm nhang trên bàn thờ gia tiên để Trời Đất chứng giám cho tấm lòng những đứa con Đất Việt chúng ta không bao giờ và không ở nơi đâu quên đi những chiến tích vinh quang, những hy sinh vô bờ của những đứa con yêu của dân tộc để cho chúng ta có cuộc sống yên bình dẫu còn lắm lo toan của ngày hôm nay!
Không! Chúng ta không bao giờ quên bất cứ một điều gì và bất cứ một ai!!!
Anh Ngọc
Facebook Comments