Đường đi của kịch bản
Theo Georges Sadoul thì ở Mỹ, những buổi chiếu đầu tiên của máy Cinematograph được tổ chức sau những buổi chiếu của máy Vitascope (do nhà phát minh Thomas Edison đỡ đầu) đã được hoan nghênh hơn rất nhiều. Nhưng không bao lâu máy chiếu Cinematograph cũng đã nhanh chóng bị máy chiếu Biograph do Lauste và Dickson sáng chế và phát hành với sự đỡ đầu khai thác của một công ty tài chánh.
Để có được niềm vinh dự đó, Auguste và Louis Lumière, con trai của Antoine Lumière, một nhà công nghiệp hóa chất vùng Lyon đã trải qua một cuộc hành trình thử nghiệm không kém phần khắc nghiệt. Thay vì cạnh tranh trong lãnh vực sản xuất loại celluloid thay thế cho các mãng thủy tinh, Antoine buộc hai con trai nghiên cứu về việc cho ra đời loại ảnh màu. Nhưng đã không thành công trong chuyện này, anh em Lumières bắt tay nghiên cứu những chiếc máy Kinetoscope của nhà vật lý Mỹ Thomas Edison đầu tiên đến Pháp năm 1894. Họ đã cùng người thợ máy Jules Carpentier làm một chiếc Excentrique của Hornblower và những thước phim nhựa theo kích thước của Edison. Thế là dẫn đến cái ngày 22.3.1895 đó, lúc anh em Lumière mất đi sự tinh nhạy đầu tiên trong đời ông: ảnh màu không còn lôi cuốn được quần chúng, họ chán ngán vì bị tràn ngập bởi những thành quả nhiếp ảnh khác đã có từ nửa thế kỷ trước. Và trong sự vội vàng được gặp lại các người bạn họa sĩ của Paris, hai nhà công nghiệp hóa chất này đã cho dựng màn ảnh để chiếu các hình ảnh cử động mà ông đã quay mấy ngày trước đó:” Buổi tan tầm của các công nhân nhà máy của ông ở Lyon”.
Sự thay đổi bất ngờ này là lúc điện ảnh ra đời; Các vị khách mời chán chường tưởng sắp bước ra phòng treo áo, đã đột ngột ngồi nán lại: Trong bóng tối, từng động tác của những con người đang nhảy múa trên chiếc màn căng đó đã mang một quyền lực ảo giác mà anh em Lumières cho đến lúc đó, có thể cũng chưa ý thức được. Chính là đời sống diễn ra trên tấm vãi, và chưa ai thấy được cái gì đó đặc biệt hơn sự kiện này.
Sau nhiều lần chiếu trước công chúng, bắt đầu từ tháng ba, 1895, Lumières cùng với Carpentier chế tạo máy Cinematographe để thể hiện giấc mơ hằng đeo đuổi.
Thực ra, vào thời điểm này, đã có rất nhiều cuộc chiếu phim rộng rãi. Nói rõ hơn,tất cả những người này đều đã làm những hình ảnh cử động trong một buổi chiếu công cọng có thu tiền vé, mà những người này không hề biết đến nhau. Điều đó sau này đã gây ra không biết bao nhiêu cuộc tranh luận về việc ai là người phát minh ra điện ảnh.
Cuối cùng, tất cả những người hoạt động điện ảnh khắp nơi trên thế giới đã nhất trí coi ngày 28.12.1895 mà anh em Auguste và Louis Lumière chiếu phim trong nhà hầm của Quán cà -phê số 14 đại lộ Capucines, Paris là ngày khai sinh của điện ảnh. Sở dĩ anh em nhà Lumiers được công nhận như cha đẻ của điện ảnh vì họ không chỉ chế tạo máy ghi hình ảnh chuyển động lên mặt phẳng mà còn là máy quay, máy chiếu và máy in được hình ảnh chuyển động đó lên phim, nhân thành nhiều bản, phóng to để chiếu lên màn ảnh cho nhiều người cùng xem, vượt hẳn các loại máy đang cạnh tranh trên thị trường không chỉ về mặt kỹ thuật, mà còn tạo được cảm xúc nơi người xem khiến nó được hoan nghênh và phổ biến khắp nơi trên thế giới.
Đến năm 1897, dân chúng Pháp, Châu Âu và Mỹ đã không còn muốn xem “ những bức ảnh động” đó nữa, như Georges Sadoul đã ghi nhận : “(…)Những bức ảnh động là một chứng minh khoa học. Sự chứng minh ấy đối với người Pháp và châu Âu, luôn cả Mỹ hình như đã hoàn tất.”(George Sadoul,L’ Histoire du Cinéma Mondial, Paris, l985,tr.43)
Không phải vì thảm họa của Chợ Từ Thiện làm gần hai trăm người bị chết thiêu do sự cố từ cái đèn Éthe của một máy chiếu đã làm cháy một đống củi và bốc lửa; mà vì đám đông quần chúng ấy, thoạt đầu, “những hình ảnh động” là những gì mới lạ đối với họ và được họ ưa thích, nhưng chỉ vài năm, phim ảnh vẫn quanh đi, quẩn lại với những cảnh đó nên sớm trở thành trò giải trí nhạt nhẽo, và nó đã không thể hấp dẫn nỗi lớp trí thức, hoặc những người thích suy tư.
Sự thật là như vậy, ở châu Âu và Mỹ, các phòng chiếu lần lượt hết khách, điện ảnh bị xua đuổi ra khỏi những thành phố lớn, biến họ thành những người làm trò ở các phiên chợ, đi trình bày một kỳ quan khoa học cho những đám cư dân lạc hậu ở nông thôn, hoặc ở những thuộc địa xa xôi. Trong cuộc tiến công của đoàn quân chiếu dạo đó, điện ảnh đã chính thức du nhập vào Việt Nam tháng 10 năm 1898 ( Sâm Thương, Điện Ảnh du nhập vào Việt Nam từ bao giờ? Điện Ảnh Tp.HCM, số 63, ngày 20.9.1989.)
Ngoài những thước phim mang đến những nơi xa xôi chiếu dạo, phần lớn bị dẹp vào kho. Chính lúc đó, Melies xuất hiện cứu nguy cho điện ảnh. Với kinh nghiệm của một nhà hoạt động sân khấu kết hợp với kỹ thuật điện ảnh mới và trí tưởng tượng sáng tạo phong phú, Melies đã tạo ra những sản phẩm điện ảnh thực sự, mà sự mới mẻ chính là cái cách ông kể chuyện bằng hình ảnh. Đã xuất hiện ở đây những mầm mống đầu tiên của ngôn ngữ điện ảnh. Những bộ phim nổi tiếng của Melies đã kéo khán giả nô nức quay trở lại với rạp chiếu bóng.
Cũng từ đấy, bên cạnh sự mới lạ của hình ảnh động, những yếu tố khác nhằm tạo ra sự hấp dẫn cho điện ảnh được chấp nhận nhiều hơn, có ý thức hơn. Đó chính là cơ sở quan trọng cho sự hình thành hệ thống ngôn ngữ điện ảnh, trong đó ngôn ngữ tạo hình giữ vị trí rất quan trọng.
Điện ảnh ra đời trên cơ sở kỹ thuật. Nghệ thuật tạo hình điện ảnh hình thành từ sự kế thừa những yếu tố tạo hình căn bản của hội họa và nhiếp ảnh kết hợp với một kỹ thuật đặc thù – kỹ thuật tạo ra ảo giác về chuyển động từ những hình ảnh tĩnh. Như vậy cái động chính là cốt lõi của hình ảnh điện ảnh, một trong những yếu tố quan trọng nhất của ngôn ngữ tạo hình điện ảnh, là mục tiêu mà hình ảnh điện ảnh luôn hướng tới. Đến năm 1897, tại Mỹ và châu Âu, người ta bắt đầu thấy xuất hiện trên màn ảnh “Cuộc chiến tranh Boer, trận chiến giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ, những trận đấu quyền Anh và những cuộc lễ tôn giáo rất sống động và mới lạ hơn nhiều…”.
Trước tâm lý luôn luôn đòi hỏi sự mới lạ của quần chúng, bắt buộc những người làm điện ảnh phải cải cách, phải sáng tạo không ngừng về mọi mặt, tiếp thu các yếu tố, kết hợp tất cả tri thức con người để có thể tồn tại, để được quần chúng chấp nhận, và “những bức ảnh động” đó đã được thay thế bởi những phim mới, phim truyện có chất lượng và có nội dung hơn trong cuộc cạnh tranh gay gắt, để thiết lập các mạng lưới chiếu phim trên khắp thế giới từ cuối năm 1897 đồng thời cạnh tranh với các ngành nghệ thuật khác. Có lẽ trong thời điểm đó, những người làm điện ảnh mới bắt đầu nghĩ đến một vấn đề bức thiết: Điện ảnh phải có kịch bản, cũng như sân khấu không thể không có kịch bản. Người ta muốn xem một thứ gì đó có chuyện được kể có thể thay thế và thay thế được, nếu không nói là hấp dẫn hơn việc đọc tiểu thuyết hay xem diễn kịch trên sân khấu.
Nhìn lại lịch sử phát triển điện ảnh thế giới thì những cuộc đại nhảy vọt, hoặc các trào lưu điện ảnh thế giới đều khởi nguồn từ khâu kịch bản hoặc sự kết hợp của các nhà biên kịch và đạo diễn.
Trong đó, cuộc nhảy vọt lần thứ nhất được kể đến là do phải cạnh tranh để giành lại khán giả trong các rạp chiếu bóng, các nhà điện ảnh Mỹ đã nghĩ ra loại kịch bản ngắn, mỗi người, hay mỗi nhóm viết một công đoạn làm các phim từ 10 phút đến 30 phút đủ để cung cấp cho hơn 10.000 rạp bình dân cho tầng lớp nghèo nhất của xã hội, giá đồng hạng 5 cents mỗi vé gọi là Rạp Kền (tiền 5 cents đúc bằng kền). Nhờ thế bộ phim The Birth of a Nation ( Sự ra đời của một quốc gia,1915) của đạo diễn D W. Griffith đã ra đời. Bộ phim nầy, chiếu tại những rạp lớn với giá 2USD một vé, đã thừa sức chứng tỏ rằng tại Hoa Kỳ có một giới khách hàng đủ khả năng để tiêu thụ những sản phẩm đắt tiền. Mặt khác, bộ phim này đã làm một cuộc cách mạng trong điện ảnh Mỹ trên khía cạnh kinh doanh, cho phép Hollywood kể từ đây bắt tay thực hiện những dàn cảnh tốn kém, vĩ đại hơn, và khẳng định điện ảnh là một nền công nghiệp hiện đại có nền móng vững chắc. Đồng thời , cho đến nay phương cách viết kịch bản theo quy trình công đoạn vẫn tiếp tục phổ biến trong điện ảnh Mỹ.
Cuộc nhảy vọt lần thứ hai thuộc về các nhà điện ảnh Liên Xô, chính các đạo diễn này tự mình viết kịch bản để làm phim ( tức là sự phối hợp giữa biên kịch và đạo diễn trong một con người ), với những bộ phim như Chiến hạm Potemkin ( Battleship Potemkin, 1925) của Sergei M. Eizenstein, Người mẹ( Mother, 1926) của Vsevolod Pudovkin, Đất ( Earth, 1930) của Alexander Dovzhenko… Mặt khác, các nhà điện ảnh như Turkin, Nathan Zarkhi , Yunakovsky cùng một số nhà biên kịch và nhà văn khác đã xây dựng nên một loại hình đặc biệt đó là kịch bản văn học đặc trưng của các nước xã hội chủ nghĩa, được viết để làm phim, in thành sách, và được nhìn nhận như một tác phẩm nghệ thuật.
Cuộc nhảy vọt lần thứ ba, hay trào lưu Tân hiện thực ( Néo Réalisme) của điện ảnh Ý, với những bộ phim như Người ăn cắp xe đạp (Ladri Di Biciclatte, Italia,1948) của Vittorio de Sica, Con đường (La Strada, Italia, 1954) của Federico Fellini, Rome Thành phố bỏ ngỏ (Roma,citta Operta, 1946) của Roberto Rossellini, Anh em nhà Rocco (Rocco e I Suoi fratelli, 1960) của Luchino Visconti v.v… nhằm mang lại cho quần chúng một giấc mơ khác, có thể không còn là giấc mơ nữa, mà buộc họ phải nhìn thẳng vào sự thật, vạch trần sự lừa mị và giả dối chính trị và xã hội, đối mặt với cuộc sống lầm than của quần chúng nhân dân Ý, đòi hỏi phải có một giải pháp cấp bách, một cuộc cách mạng và triệt để trong nghệ thuật , cũng như trong xã hội.
Nhưng nếu đã nhắc đến Chủ nghĩa Tân hiện thực của điện ảnh Ý , mà không đề cập đến Thời Đại vàng và Đợt sóng mới của điện ảnh Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai là một điều phi lý. Trào lưu điện ảnh đó, với sự xuất hiện của những tên tuổi như Akira Kurosawa với Rahomon( 1950), Sống ( Ikiru,1952), Bảy võ sĩ đạo ( Shichinin no Samurai,1954), Ngai vàng đẫm máu ( Kumonosu-jo, 1957), Pháo đài ẩn giấu ( Kakushi toride o san-akunin, 1958); Kenji Mizoguchi với Cuộc đời của người kỷ nữ ( Saikaku ichidai onna,1952),Câu chuyện dưới ánh trăng mờ (Gion bayashi,1953);Viên quản lý Sansho ( Sansho dayu,1954), Đường phố sĩ nhục (Akasen chitai, 1956); Yasujiro Ozu với Xuân muộn ( Banshun,1949), Hè sớm (Bakushu,1951), Bông cúc nở muộn ( Higanbana, 1954), Cơn mưa bất chợt (1956); Mikio Naruse với Người đàn bà khác ( Tsuma toshite onna toshite,1961), Mùa Thu Đến Gần ( Akibiyori, 1961) Horoki ( 1962), Teinosuke Kinugasa với Địa ngục môn ( Jigokumon,1953), Kon Ichikawa với Những đốm lửa đồng bằng ( Nobi,1959); Kaneto Shindo với Những Đứa trẻ ở Hiroshima ( Genbakuno-ko,1952), Đảo trụi (Hakada no shima,1960), Masaki Kobayashi với Thân phận con người ( Ningen no joken,1961), Seppuku (1965) v.v.. Các nhà điện ảnh Nhật Bản thuộc trào lưu này, trước tiên, họ đãkhông ngừng nỗ lực để đưa đến cái mới trong điện ảnh, những gì họ thể hiện là những khát vọng, những ước mơ của quần chúng, và góp phần làm cho xã hội và điện ảnh Nhật Bản ngày càng phát triễn, hoàn mỹ hơn.
Mặt khác, chúng ta cũng không thể bỏ qua, mà không nhắc đến Đợt Sóng Mới ( Nouvelle vague) của điện ảnh Pháp với những nhà điện ảnh như Francois Truffaut, Jean- Luc Godard, Alan Resnais, Claude Chabrol, Eric Rohmer, Jaques Rivette… Họ đã đưa ra một cái nhìn mới về lịch sử và nghệ thuật điện ảnh. Đồng thời, cố gắng phục hồi vị trí của những người mà nhóm nầy gọi là những người thực sự của điện ảnh. Nhưng cái chính yếu , có thể tìm thấy nơi những nhà điện ảnh đợt sóng mới là một ý thức dấn thân trong sự lựa chọn của chính họ : “Nghệ sĩ là một kẻ ở ngòai xã hội, anh ta gửi gắm tới xã hội. Do đó , anh ta đặt định cho người khác cái độc đáo của anh ta chứ không phải đi về phía cái tầm thường của họ”. Và cũng chính Francois Trufaut đã nhấn mạnh: “Tôi làm phim để đem lại hạnh phúc cho chính mình; khi phim tôi thành công thì hạnh phúc ấy tôi đem lại cho những người khác – và đó là điều lý tưởng…..” Không chỉ có vậy, những nhà điện ảnh Đợt sóng mới của điện ảnh Pháp có những khai phá, cải tiến trong cách viết kịch bản, cũng như cách quay phim.
Cuộc nhảy vọt lần thứ tư thuộc về các nhà điện ảnh Trung Quốc , đó là sự kết hợp giữa biên kịch và đạo diễn, có thể do những điều kiện sản xuất ở Trung Quốc vào thời điểm đó, những đạo diễn và biên kịch Trung Quốc đã phối hợp, cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được những bộ phim trên giấy ( kịch bản) trước khi chính thức thực hiện nội dung bộ phim ở trường quay. Từ những nỗ lực này, điện ảnh Trung Quốc đã có một bộ mặt khác, được nhìn nhận như một nền điện ảnh mạnh trên bản đồ điện ảnh thế giới.
Cuộc nhảy vọt lần thứ năm thuộc về các nhà điện ảnh Hàn Quốc. Năm 1995, điện ảnh Hàn Quốc vẫn ở trong cái vòng lẫn quẫn, không có một hướng đi rõ rệt. Các nhà làm phim gồm biên kịch và đạo diễn cùng với các nhà văn Hàn Quốc ý thức được điều đó, họ đã đấu tranh đòi nhà nước phải thành lập Ủy ban Điện ảnh Quốc gia, có cơ chế bảo hộ nền điện ảnh dân tộc, đột phá vào mãng đề tài tâm lý xã hội . Chỉ 3 năm sau họ đã gặt hái thành công, buộc các cường quốc điện ảnh phải nhìn nhận sự trổi dậy của họ. Hiện nay, họ tiếp tục công cuộc khai phá và đa dạng hóa mãng tâm lý xã hội trong các thể loại phim, đặc biệt về đề tài truyền thống lịch sử.
Với những nổ lực không ngừng trên nhiều mặt, không chỉ trong phạm vi kỹ thuật, điện ảnh và truyền hình ngày càng đào sâu hơn, nhất là về mặt tư tưởng triết lý, bởi vì nó thực sự đã trở thành phương tiện mà con người dùng để tư duy, sáng tạo cuộc sống tinh thần như họ đã từng làm với những bộ môn được sản sinh ra trước nó…
Ngày nay viết kịch bản là một công đoạn quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất trong hệ thống sản xuất điện ảnh và truyền hình, nó quyết định bộ mặt và sự sinh tồn của nền điện ảnh hay truyền hình ấy.
Sâm Thương
Vanchuongviet.org
Facebook Comments